Thứ Năm, 18 tháng 4, 2013

Chiến lược bảo vệ Biển Đông độc của Việt Nam

Cách đây ít lâu Robert Karniol, một cây bút có uy tín về các đề tài quân sự Á châu, vừa có bài nhìn nhận 'Việt Nam đang chuẩn bị để bảo vệ tốt hơn chủ quyền của mình trên Biển Đông'.


Quân đội Việt Nam đang tăng cường khả năng phòng thủ

Theo đó, nhà phân tích hiện ở Singapore cho rằng Việt Nam đang học kinh nghiệm của chính nước láng giềng Trung Quốc trong chiến lược quân sự đối với Đài Loan.

Theo nhận định của giới quan sát, cán cân quân sự qua eo biển nay đang nghiêng dần về phía Trung Quốc, và qua đó Bắc Kinh thúc đẩy các quyền lợi an ninh rộng lớn hơn là chỉ để đối phó với Đài Loan.

Nói thẳng ra, thì tham vọng chiến lược của Trung Quốc là có đủ năng lực quân sự để đương đầu với bất cứ thách thức nào từ phía Hoa Kỳ.

Để làm việc này, bên cạnh quá trình hiện đại hóa quân đội và tăng cường khả năng hạt nhân, Trung Quốc phát triển một chiến thuật riêng để đối trọng với Hoa Kỳ. Chiến thuật này có tên là 'sát thủ giản' và đã được nhiều nhà phân tích phương Tây chú ý tìm hiểu.

'Sát thủ giản' có thể diễn giải một cách đơn giản là thay vì tăng cường chạy đua vũ trang, Bắc Kinh tìm cách giảm thiểu công dụng và hiệu quả của vũ khí Mỹ, thí dụ qua việc phát triển các thiết bị chống vệ tinh.

Trong hải quân, Trung Quốc ứng dụng 'sát thủ giản' bằng phương thức chống tiếp cận mà giới quân sự gọi là anti-access/area denial (A2/AD). Đó là thiết lập các vùng trên biển đặc biệt nhằm mục tiêu chống lại các cuộc tấn công của đối thủ. Với cách thức này, Trung Quốc có thể đối phó ngay trong trường hợp hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ được huy động tham gia xung đột nhằm bảo vệ Đài Loan.


Giải phóng quân Trung Quốc đang nghiên cứu chế tạo hỏa tiễn đạn đạo chống tàu chiến DF-21D với tầm che phủ trên 1.500 km.

Giải phóng quân Trung Quốc đang nghiên cứu chế tạo hỏa tiễn đạn đạo chống tàu chiến DF-21D với tầm che phủ trên 1.500 km. Có loại tên lửa này trong tay, Trung Quốc có thể kìm chân bất cứ hoạt động hải quân nào của Hoa Kỳ hay một quốc gia nào khác trong khu vực.

Bên cạnh hỏa tiễn tầm xa, Trung Quốc cũng đang tập trung phát triển hệ thống phòng không nhằm phát hiện và tiêu diệt các loại chiến đấu cơ của địch. Tiếp đó là đội ngũ tàu ngầm đang ngày càng được đầu tư để đối phó với các đe dọa trên mặt biển.

Giới chuyên gia được dẫn lời nhận định các nỗ lực nói trên đang giúp Trung Quốc tạo dựng các 'khu vực chống tiếp cận' càng ngày càng rộng, khiến quân đội Hoa Kỳ hoạt động càng lúc càng khó khăn.

Theo ông Robert Karniol, Việt Nam đã phát hiện và ứng dụng chiến thuật của Trung Quốc.'Giống như Trung Quốc, Việt Nam đối diện với vấn đề nan giải là phải tìm cách đối phó một đối thủ tiềm tàng có sức mạnh quân sự vượt trội.'


Nhà phân tích hiện ở Singapore cho rằng Việt Nam đang học kinh nghiệm của chính nước láng giềng Trung Quốc trong chiến lược quân sự đối với Đài Loan

Nhà phân tích này cho rằng việc Hà Nội mua các chiến đấu cơ đa năng Su-30MK và chiến hạm lớp Gepard của Nga chính là để tăng khả năng chống tiếp cận (A2/AD) với chủ trương không chạy theo số lượng mà chú ý tính năng.

Loại chiến đấu cơ Su-30MK đời mới mà Việt Nam mua có gắn hỏa tiễn chống tàu chiến Kh-59MK với tầm bắn 115 km, trong khi chiến hạm Gepard có kèm tên lửa chống tàu chiến Kh-35E với tầm xa 130 km và có thể tấn công tàu trọng tải lớn tới 5.000 tấn.

Hà Nội cũng đã ký hợp đồng mua sáu tàu ngầm hạng Kilo, được trang bị thêm hỏa tiễn 3M-54 Klub chống tàu trên mặt biển với tầm bắn 300 km.


Việt Nam cần hiện đại hóa quân đội ở mức cao nhất

Song song, Việt Nam cũng mua thêm một số hệ thống phòng thủ bờ biển của Israel, với tầm che phủ khoảng 150 km. Về phòng không thì có ba đài radar vi sóng hết sức tối tân Vera của Cộng hòa Czech. Được biết, Washington thoạt tiên chặn việc mua bán radar này, nhưng sau lại chấp thuận.Tất cả các sáng kiến trên, theo ông Karniol, là để bảo đảm Việt Nam không bị yếm thế trong trường hợp kẻ thù muốn tìm cách độc chiếm Biển Đông.

Phân tích gia quân sự từ Singapore cũng nhấn mạnh: chính các nhà hoạch định chính sách quân đội Việt Nam, với kinh nghiệm qua nhiều thập niên tác chiến, đã tự đưa ra được chiến thuật này. 

Tác giả Robert Karniol ( Strail times,Vibay.Blogpost, BBC)

Thế thời, thế nước, thế trận giữ chủ quyền Biển Đông

Thế lấy lực làm cơ sở, do lực quyết định, nhưng thế lợi, thế hiểm thì biến lực nhỏ thành lớn và ngược lại một lực lớn nhưng ở vào thế bất lợi, mất thế thì bị suy yếu.

Lịch sử trong các lần dân tộc ta phải đối đầu với quân xâm lược thì lực lượng của chúng ta lúc đầu bao giờ cũng nhỏ và yếu hơn địch. Quy luật khắc nghiệt của chiến tranh là mạnh thì thắng mà yếu thì thua, nhưng ta thắng, chứng tỏ dân tộc ta rất giỏi trong nghệ thuật tạo thế.

Chúng ta luôn luôn có thế lợi, thế hiểm nên lực lượng nhỏ biến thành lớn, đặc biệt biết dùng mưu, trí để đưa địch vào chỗ bất lợi, thế ta cài sẵn làm cho địch càng suy yếu thêm. Chúng ta đã biến yếu thành mạnh để thắng trong chiến tranh.

Thế, có ý nghĩa quan trọng quyết định thành bại của chiến tranh như vậy nên tạo thế không phải dễ dàng, không chỉ đơn thuần là công việc của các nhà quân sự mà là cả một hệ thống chính trị, bao gồm đối nội, đối ngoại trên các lĩnh vực chính trị tư tưởng, quân sự, ngoại giao, kinh tế…



Trường Sa-Hòn đảo tiền tiêu nơi ngàn trùng sóng gió, vẫn hiên ngang bất khuất, là phên dậu vững chắc của Tổ quốc Việt Nam
Như vậy, hệ thống phòng thủ bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) của Việt Nam, nói cách khác là công cuộc BVTQ Việt Nam trong tình hình hiện nay có bảo đảm chắc chắn hay không phụ thuộc vào tình thế (khu vực, thế giới), thế nước, thế trận và thế bố trí lực lượng phòng thủ. Trong đó, thế nước là yếu tố quyết định thành bại của công cuộc phòng thủ BVTQ.

Trước hết, hệ thống phòng thủ BVTQ chúng ta tồn tại trong một tình thế (khu vực, thế giới) thuận lợi mà ta đã nắm bắt kịp thời, khai thác tối đa.

Tình hình khu vực hiện nay, dễ nhận thấy nguy cơ thách thức an ninh chủ quyền, quyền chủ quyền đến biển đảo Việt Nam trên biển Đông là hiện hữu và đang trở thành một điểm nóng khiến thế giới quan tâm.

Tranh chấp chủ quyền các đảo, quyền chủ quyền vùng biển trên biển Đông với một bên cậy thế nước lớn, không theo luật pháp quốc tế và một bên là những nước nhỏ trong đó có Việt Nam kiên quyết bảo vệ quyền của mình theo luật pháp quốc tế.

Đương nhiên khi biển Đông còn tồn tại đan xen quyền lợi, lợi ích của nhiều quốc gia về kinh tế cũng như quốc phòng thì không ai có thể chiếm đoạt toàn bộ biển Đông mà không có cơ sở pháp lý nào.

Tuân thủ luật quốc tế về biển, Việt Nam được sự ủng hộ, giúp đỡ và trở thành đối tác chiến lược của các quốc gia có mối quan tâm ở biển Đông như khối ASEAN, Nga, Ấn Độ…

Đặc biệt, Nga một siêu cường quân sự đã giúp Việt Nam về VKTB cho phòng thủ, có những loại vũ khí hiện đại vào loại bậc nhất trên thế giới như Bastion-P mà ngoài Nga ra chỉ có ở Việt Nam. Đó chính là những thành tựu nổi bật nhất trong công tác đối ngoại của Việt Nam ghi đậm dấu ấn trong năm 2010 và 2011.

Ngoài ra sự trở lại của Mỹ ở châu Á-TBD cũng khiến cho khả năng hoạt động quân sự ở khu vực biển Đông trở nên đa phương, ràng buộc nhau hơn.

Đây là tình thế có lợi cho Việt Nam. Trong cuộc chiến ở biển Đông nếu xảy ra, Việt Nam không chỉ có riêng mình.

Thứ hai là thế nước.
Một hệ thống phòng thủ đất nước với vũ khí trang bị tối tân hiện đại đến mấy, thậm chí có bom hạt nhân mà thế nước suy, có nghĩa là nội bộ lãnh đạo mất đoàn kết, bạc nhược, tham sống sợ chết, lòng dân oán hận, căm ghét chế độ…thì ngay như Liên Xô trước đây chưa đánh đã tan.

Gần đây có I-Rắc, Li Bi…là một bài học nhãn tiền. Họ không thiếu vũ khí hiện đại, không thiếu tiền…nhưng bạc nhược, người lính không lý tưởng…dù chế độ này có mất đi chả ảnh hưởng gì đến họ thì thất bại là đương nhiên.

Việt Nam khác họ, dân tộc ta, lịch sử ghi nhận dù ở bất kỳ chế độ nào mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì đều đặt đất nước là trên hết.

Đó chính là truyền thông yêu nước mà chúng ta có quyền kiêu hãnh, không thua kém với bất cứ dân tộc nào trên thế giới.

Huống chi ngày nay, đất nước dù còn nghèo nhưng đang trên đà phát triển, chính trị ổn định, yên lành, toàn dân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng CSVN-một tổ chức đầy bản lĩnh, kinh nghiệm dày dạn trong chiến tranh thì có thể nói thế nước đã vững vàng.

Toàn Đảng, toàn dân tộc và các lực lượng vũ trang sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc. Đây chính là sức mạnh dân tộc, sức mạnh vô địch.

Cuối cùng, thế trận, thế địa lý mà hệ thống phòng thủ tồn tại.

Thế trận chiến tranh nhân dân, từ xưa cho tới nay là một thế trận mà không một kẻ xâm lược nào phá vỡ nổi.

Một đất nước mà “sáng trong bão giông, chiều trong mưa lũ”; một đất nước mà có nhiều địa danh quen thuộc, nhắc tên khiến ta tự hào như: Ải Chi Lăng, Bạch Đằng, Rạch Gầm-Xoài Mút, đường Hồ Chí Minh trên biển, đường Trường Sơn…khiến quân xâm lược chẳng mấy thích thú và tự tin khi nghĩ đến.

Hệ thống phòng thủ BVTQ tồn tại trong một thế như này chắc chắn một người bi quan đến mấy vẫn có thể tự tin.

Diệu kế bảo vệ Tổ quốc của Quân đội Việt Nam

Đối tượng có âm mưu tấn công xâm lược Việt Nam, đương nhiên bao giờ cũng hùng mạnh hơn khi so sánh lực lượng mới dám hành động. Nhưng khi xảy ra chiến tranh thì sự so sánh đó chỉ mang tính tương đối.

Để dành thắng lợi trong chiến tranh còn phụ thuộc nhiều yếu tố như: Bố trí lực lượng như nào trên cơ sở địa lý để biến lực lượng ít thành nhiều, yếu thắng mạnh.

Bố trí lực lượng ra sao để phục vụ cho lối sở trường hay như lối đánh đánh tập kích nhiều hướng, nhiều tầng, dồn dập, vân vân và vân vân. Đó thuộc về nghệ thuật quân sự chỉ huy, mưu kế nhà binh của các tướng lĩnh, sỹ quan QĐND Việt Nam.

Bởi vậy, muốn thực thi nghệ thật quân sự, phải tiến hành tổ chức xây dựng lực lượng phù hợp đáp ứng với cách thức bố trí và sử dụng lực lượng. Đây vừa là nội dung, vừa là tiền đề cho nghệ thuật tác chiến đánh thắng kẻ thù. Không xây dựng phát triển lực lượng, thậm chí xây dựng thiếu khoa học, không phù hợp với tình hình thực tế đất nước thì thất bại là không tránh khỏi.

Có thể nói chưa bao giờ trong lịch sử, Việt Nam ngày nay dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chuẩn bị cho nhiệm vụ phòng thủ bảo vệ tổ quốc (BVTQ) một cách bình tĩnh, tự tin, sáng suốt, nhạy bén đến thế.

Việt Nam bình tĩnh bởi trước những nguy cơ, thách thức và sức ép cực lớn của các thế lực thù địch hùng mạnh đe dọa sử dụng vũ lực mà không rối trí. Nhân dân Việt Nam vẫn không sợ, không nao núng hay mắc mưu trước những âm mưu hiểm độc của địch.

Việt Nam tự tin bởi trong những lúc đất nước “như ngàn cân treo sợi tóc” khi phải đối đầu với một kẻ thù hùng mạnh nhất thế giới, máy chém lê khắp miền Nam, miền Bắc thì bầu trời, vùng biển không quân và hải quân địch làm chủ, khống chế.

Hải quân, không quân Việt Nam còn lạc hậu hơn địch hàng trăm lần mà chúng ta vẫn có những trận đánh để đời… và rồi chúng ta đã vượt qua thì ngày nay chúng ta có thuận lợi hơn rất nhiều.

Trước hết là sự sáng suốt, nhạy bén trong công tác tổ chức xây dựng lực lượng, hiện đại hóa Quân đội.

Thay vì xây dựng quân đội chính quy từng bước hiện đại, thì trước tình hình an ninh quốc gia đang bị nhiều nguy cơ thách thức, Việt Nam quyết định đưa “Hải quân, Phòng không –Không quân, Tác chiến điện tử và Thông tin liên lạc tiến thẳng lên hiện đại”.

Trong chiến tranh hiện đại, một quốc gia hùng mạnh có nền quân sự hiện đại gây ra với một quốc gia nhỏ, năng lực quốc phòng hạn chế gần như có chung một phương thức tiến hành.



Bastion-P là một trong những hệ thống tên lửa phòng thủ bờ biển cơ động hiện đại nhất trên thế giới hiện nay. Đến nay, chỉ có Hải quân Nga và Việt Nam sở hữu hệ thống tên lửa khủng khiếp này. Với phần chiến đấu 200 kg, Yakhont có thể tiêu diệt hầu hết tàu chiến trên thế giới hiện nay chỉ với một quả đạn. Và với một loạt phóng 8 quả (2,5s/1 quả) nó có thể buộc một hạm đội đối phương phải từ bỏ nhiệm vụ.

Chẳng hạn như ở 3 cuộc chiến tranh gần đây mà Mỹ và NATO tiến hành với Nam Tư, I-Rắc, và Ly Bi thì phương thức tấn công đó là:

Đầu tiên (tác chiến điện tử), tên lửa hành trình từ các tàu ngầm, tàu nổi mở màn, tấn công vào lãnh thổ nhằm làm cho hệ thống radar phòng không, hệ thống thông tin chỉ huy liên lạc tê liệt hoặc thiệt hại nặng khiến đối phương như “mù” và “điếc”.

Ở Nam Tư năm 1999, 218 tên lửa Tomahawk được phóng đi từ tàu ngầm Anh và tàu chiến Mỹ. Cuộc chiến Iraq 2003, 725 Tomahawk được bắn vào các mục tiêu ở Iraq.

Còn tại cuộc chiến Libya 2011, chỉ trong ngày đầu 19/3 Mỹ - Anh phóng tới 124 quả, ngày 22/3 phóng tiếp 159 quả.

Tiếp theo, không quân xuất kích chiếm lĩnh, thống trị bầu trời săn diệt những mục tiêu quân sự còn lại một cách dễ dàng và đánh phá các trung tâm kinh tế, chính trị, quốc phòng…mà không hề gặp sức kháng cự.

Giai đoạn này được coi là then chốt, quyết định kết quả chiến tranh. Mục đích chiến tranh đạt được hay không tùy thuộc có thống trị được bầu trời đối phương hay không.

Cuối cùng là lực lượng đổ bộ xuất kích hoặc không cần thiết khi đối phương đã đầu hàng không điều kiện.

Việt Nam cũng rơi vào một hoàn cảnh gần tương tự: kinh tế chưa phát triển, khoa học công nghệ còn hạn chế, bờ biển dài…thì phương thức tấn công với 3 bước trên trở nên hết sức nguy hiểm.

Vì vậy, muốn chiến thắng kẻ thù không cách nào khác là phải xây dựng Hải quân, PK-KQ, Tác chiến điện tử và lực lượng thông tin liên lạc hiện đại, tinh nhuệ thiện chiến, cùng với toàn quân, toàn dân giáng trả, phá tan từng giai đoạn tiến hành chiến tranh của địch.

Với tinh thần đó, trong một thời gian chưa dài, nhưng Việt Nam đã tích cực xây dựng Hải quân, Phòng không-Không quân - lực lượng nòng cốt bảo vệ vùng trời, vùng biển và lực lượng tác chiến điện tử, thông tin liên lạc thực sự hiện đại, có trang bị vũ khí tối tân đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Việc các chuyên gia quân sự nước ngoài coi Việt Nam là quốc gia có tiềm lực quân sự mạnh nhất ĐNA, chúng ta không hề muốn như thế.

Nhưng ở giác độ nào đó cho chúng ta thấy sự quyết tâm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ và toàn dân tộc trong việc bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc.

Dù còn nghèo nhưng dân tộc Việt Nam vẫn sẵn sàng “thắt lưng buộc bụng” để tăng cường sức mạnh cho quân đội đủ sức răn đe và giáng trả đích đáng nếu chúng liều lĩnh xâm phạm bờ cõi.

Sức mạnh răn đe ngăn ngừa chiến tranh của VN ở đâu?

  • Một vấn đề đặt ra là, chúng ta có sức mạnh nào để răn đe ngăn ngừa chiến tranh không?
  • Chúng ta không thể làm theo cách của Triều Tiên hay Iran. Chúng ta cũng không thể liên minh quân sự với ai.
  • Vậy, sức mạnh răn đe ngăn ngừa chiến tranh của Việt Nam ở đâu?

Chuẩn bị sức mạnh quân sự theo “kiểu Việt Nam”.

Với Việt Nam, trong tình thế hiện nay, nếu nói rằng chúng ta đang tập trung nhân lực, vật lực để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh chống xâm lược đang gần kề là không thực tế và xác đáng.

Tuy nhiên, xây dựng đi đôi với phòng thủ bảo vệ đất nước, chúng ta đầu tư, tổ chức xây dựng lực lượng, bố trí, sử dụng lực lượng để phòng thủ là nhiệm vụ thường xuyên và càng ngày càng phải được tăng cường, trong đó phòng thủ Tổ quốc từ hướng biển – hướng chính, hướng sống còn là nhiệm vụ cấp bách, ưu tiên hàng đầu mà hải quân là lực lượng nòng cốt.


Lực lượng của Hải quân Việt Nam

Một đất nước có đường bờ biển dài hơn 3 ngàn km và hơn 3 ngàn hòn đảo lớn nhỏ, với “tư duy biển” như hiện nay thì xây dựng một lực lượng hải quân và một lực lượng phòng thủ bờ biển hùng mạnh là mơ ước của Việt Nam.
Nói là mơ ước, bởi hiện tại, đó là điều chưa thể, nền kinh tế, KHKT đất nước chưa cho phép.

Chúng ta càng không thể kiếm tìm, chuẩn bị một lực lượng tương xứng, cân bằng sức mạnh quân sự với đối thủ tiềm tàng để sẵn sàng “đôi công”.

Vì vậy, chuẩn bị phòng thủ bảo vệ Tổ quốc từ hướng biển của Việt Nam cũng theo cách của Việt Nam.

Giới quan sát đã thấy rất nhiều vấn đề ở đây. Chẳng hạn: Lực lượng phòng thủ bờ biển và hải quân đã trở nên tinh gọn, hiện đại và thiện chiến. Tinh gọn để hiện đại.

Sự hiện đại có trọng tâm, trọng điểm, mang tính đột phá để chiếm ưu thế so với đối thủ.

Chúng ta chỉ để ý một chút vào lực lượng phòng thủ bờ là rõ: Hệ thống tên lửa Bastion-P (Việt Nam mới chỉ có 2 đơn vị TL này). Bastion-P là một trong những hệ thống tên lửa phòng thủ bờ biển cơ động hiện đại nhất trên thế giới hiện nay.

Đến nay, chỉ có Hải quân Nga và Việt Nam sở hữu hệ thống tên lửa khủng khiếp này. Về lý thuyết, với phần chiến đấu 200 kg, Yakhont có thể tiêu diệt hầu hết tàu chiến trên thế giới hiện nay chỉ với một quả đạn.

Và một đơn vị, với một loạt phóng 8 quả (2,5s/1 quả) nó có thể buộc một hạm đội đối phương phải từ bỏ nhiệm vụ.

Rõ ràng, ít nhất đây cũng là một tình huống “đáng ngại” để Bộ Tham mưu đối phương phải suy xét “nên hay không nên” trước khi gây chiến. Đó cũng chính là một trong những sức mạnh răn đe của tuyến phòng thủ bờ biển của chúng ta bởi tính hiện đại của vũ khí trang bị.

Tuy nhiên, cái quan tâm nhất là, sự chuẩn bị sức mạnh đó nó mang tính Việt Nam như thế nào, mới thấy hết được bản lĩnh, trí tuệ và sự tự tin của Việt Nam trước đối thủ xâm lược. Chẳng hạn như về xây dựng và sử dụng lực lượng theo tư tưởng, học thuyết quân sự Việt Nam:

Trong chiến tranh hiện đại, tên lửa là loại vũ khí có vai trò quan trọng quyết định như thế nào ai cũng rõ. Vì thế, các quốc gia ưu tiên nghiên cứu phát triển những thứ mang nó như tàu chiến, máy bay, các hệ thống phóng…ngày càng hiện đại. Trên biển, tàu phóng tên lửa (mặt nước, ngầm) luôn được coi là lực lượng “át chủ bài”.

Tư tưởng, học thuyết quân sự Việt Nam không phủ nhận điều này.

Nhưng nếu như các quốc gia nhỏ, yếu ven biển ít quan tâm đến lực lượng tàu phóng lôi hơn trong phòng thủ thì Việt Nam không như thế.

Lực lượng tàu phóng lôi của Hải quân Việt Nam đặc biệt là tàu phóng lôi cánh ngầm vẫn củng cố và phát triển.

Từ năm 1989 lực lượng tàu phóng lôi cánh ngầm đã xuất hiện đủ để cùng với các tàu tên lửa làm “nguội” những cái đầu hung hăng muốn đánh chiếm Trường Sa lúc bấy giờ.

Điều khiến cho tàu phóng lôi ít được quan tâm hơn có lẽ bởi từ vũ khí của nó: Ngư lôi. Ngư lôi do “bay” dưới nước nên tốc độ chậm hơn nhiều so với tên lửa cho nên không thể tác chiến từ xa được.

Vì thế bắt buộc tàu phóng lôi phải vận động tiếp cận mục tiêu phóng mới hiệu quả. Và đương nhiên tàu phóng lôi luôn bị phơi mình trong tầm mọi hỏa lực của đối phương, không khác chi con thiêu thân.

Có thể nói, đây là hình thức tác chiến rất “đặc biệt” của tàu PL mà không phải quốc gia nào cũng thi thố được.

Tuy nhiên, khi tàu phóng lôi tiếp cận được mục tiêu mà không bị tiêu diệt thì mục tiêu coi như bị định đoạt, làm mồi cho ngư lôi mà vô phương chống đỡ vì quá gần. Đây là ưu điểm tuyệt vời nhất, “quyến rũ” nhất của tàu phóng lôi (PL).

Khác với tàu tên lửa, do tấn công từ khoảng cách rất xa nên phụ thuộc nhiều yếu tố không chắc chắn và vì thế xác suất không cao, trong khi đó nếu đối phương không ngăn cản được tàu PL tiếp cận, để cho tàu PL “bám thắt lưng” thì khi ngư lôi, không cần hiện đại như Shkval VA-111 được phóng ra, coi như chỉ còn cách ôm phao cứu sinh lo cho mình, còn cho tàu thì không thể.

Làm sao để tàu PL “bám được thắt lưng”? Nếu như đây là bài toán đau đầu cho đối phương thì ngược lại rất hưng phấn cho giới quân sự Việt Nam vì có nhiều cách giải.

Nhưng cách lợi dụng địa hình, địa vật tập kích bất ngờ và cách như của 3 tàu PL Việt Nam, bất chấp hòn tên mũi đạn, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh dạy cho tàu khu trục Ma-đốc Hoa Kỳ một bài học thì giới quân sự đối phương thừa biết và luôn luôn nghĩ đến dù biết rằng sẽ mất ý chí chiến đấu.

Lực lượng tàu PL, đặc biệt là tàu phóng lôi cánh ngầm, trong tay Hải quân Việt Nam là lực lượng được sử dụng đòn “đánh gần” “bám thắt lưng địch mà đánh” cực kỳ nguy hiểm, hiệu quả. Cái giá mà đối phương phải trả ngoài khả năng chịu đựng tất nhiên không loại trừ từ lực lượng này.

Sức mạnh răn đe ngăn ngừa chiến tranh của VN

“Muốn có hòa bình phải chuẩn bị cho chiến tranh”. Tư tưởng này đã trở thành phương châm sống còn cho bất kỳ quốc gia nào bị các nước lớn đe dọa dùng vũ lực tấn công xâm lược.

Vậy, chuẩn bị cho chiến tranh như thế nào để ngăn ngừa được chiến tranh, giữ vững hòa bình? Đó là phải chuẩn bị một sức mạnh đủ để giáng trả, buộc đối phương phải trả giá cực đắt hoặc giá đắt không thể chịu đựng nổi nếu gây chiến.

Sức mạnh đó chính là sức mạnh răn đe ngăn ngừa chiến tranh.

Trong công cuộc phòng thủ bảo vệ Tổ quốc chống chiến tranh xâm lược, hệ thống phòng thủ được coi là tin cậy, vững chắc thể hiện đầu tiên bởi khả năng ngăn ngừa chiến tranh. Muốn vậy phải có một sức mạnh đủ để răn đe đối phương.

Nếu đối phương gây chiến thì đương nhiên sẽ bị giáng trả quyết liệt. Dù thắng hay bại họ đều phải trả giá. Nếu xét thấy giá phải trả khiến họ không thể chịu đựng nổi thì chiến tranh chưa thể xảy ra hoặc sẽ phải kết thúc khi đã lỡ tiến hành.

Tuy mục đích là như nhau song tùy theo tình hình cụ thể, mỗi quốc gia có cách lựa chọn cho mình để tạo nên sức mạnh răn đe khác nhau.

Có quốc gia tìm kiếm chủ yếu là từ sức mạnh quân sự như Triều Tiên hay Iran, có quốc gia thì xây dựng các mối liên minh quân sự như Philippines …

Chúng ta chia sẻ, thông cảm và không có gì ngạc nhiên khi Triều Tiên hay Iran đang chịu rất nhiều áp lực mà vẫn tìm cách sở hữu vũ khí hạt nhân. Có thể nói 2 quốc gia này đang bên bờ vực của một cuộc chiến tranh.

Triều Tiên đã kêu gọi Mỹ và Hàn Quốc nối lại các đàm phán hòa bình để tiến tới ký kết Hiệp định hòa bình nhằm chấm dứt vĩnh viễn chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên.

Triều Tiên cũng khẳng định lại lập trường của mình là chỉ quay trở lại bàn đàm phán hạt nhân nếu Mỹ và đồng minh chấm dứt chính sách thù địch và LHQ chấm dứt các lệnh trừng phạt bất hợp lý của mình.

Trong điều kiện thứ nhất, đàm phán hòa bình để tiến tới ký kết một hiệp định hòa bình là con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất.

Về nguyên tắc, 2 miền Triều Tiên vẫn trong tình trạng chiến tranh vì cuộc chiến năm 1950-1953 chỉ chấm dứt bằng một lệnh ngừng bắn không có giá trị như một hiệp định hòa bình.

Vì vậy, việc ký kết một hiệp định hòa bình như thế về mặt chính thức giúp cho quan hệ giữa CHDCND Triều Tiên với Hàn Quốc và Mỹ không còn thù địch nữa.

Tuy nhiên, lời kêu gọi của Triều Tiên đã ngay lập tức bị Mỹ và Hàn Quốc bác bỏ. Và đương nhiên, không còn con đường nào khác, Triều Tiên phải chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh mà Hàn Quốc và Mỹ có thể gây ra.


Máy bay ném bom chiến lược B-52.

Cộng hòa Hồi giáo Iran cũng đang nghẹt thở bởi đòn trừng phạt cấm vận phi lý và các động thái chuẩn bị chiến tranh giáng vào Iran của Mỹ, NATO và Israel.

Gần Việt Nam có Philippines đang rất căng với Trung Quốc. Báo chí Trung Quốc không ngớt đe dọa tấn công Philippines, nhưng Philippines vẫn cứng rắn trong việc bảo vệ chủ quyền.

Điểm chung của Triều Tiên và Iran là bị đe dọa, bị chèn ép, bị gây chiến, là nước có thế lực yếu hơn. Vì vậy, vũ khí hạt nhân và tên lửa tầm xa… là lực lượng răn đe hữu hiệu nhất mà họ cố đeo đuổi để tự bảo vệ mình.

Mỹ-Hàn có thể thắng Triều Tiên, Mỹ-NATO và Israel có thể thắng Iran nhưng chịu đựng được cái giá phải trả hay không là một vấn đề, một suy nghĩ khi đặt lên bàn cân tính toán thiệt hơn.

Với Philippines, so với Trung Quốc chỉ là “con muỗi”, nhưng Trung Quốc không thể muốn làm gì thì làm, bởi sau lưng Philippines là Mỹ-một sức mạnh đáng giá mà Trung Quốc cần đắn đo.
Kinh nghiệm của cuộc chiến tranh tại Việt Nam là một bài học tươi nguyên.

Trong trận “Điện Biên Phủ trên không”, lực lượng giữa Việt Nam và Mỹ thì không cần dùng từ “so sánh”, nhưng tại sao Mỹ vẫn phải tuyên bố ngừng chiến dịch vô điều kiện?

Mỹ tung vào chiến dịch này 193 pháo đài bay chiến lược B-52. BTL PK-KQ cùng các chuyên gia Liên Xô sau một tuần nghiên cứu, tính toán đã trả lời câu hỏi của Đại tướng TTL về tỷ lệ rơi B-52 như sau:

- B-52 rơi 1%-2% (2-4 chiếc). Mỹ chịu đựng được.
- B-52 rơi 6%-7% (12-14 chiếc). Nhà Trắng sẽ rung chuyển (BQP Mỹ)
- B-52 rơi trên 10%(trên 20 chiếc) Mỹ sẽ bỏ cuộc, chấp nhận thua.

Thực tế chứng minh là pháo đài bay B-52-Thần tượng của không lực Hoa Kỳ tan xác trên bầu trời Hà Nội với một con số 17% (34 chiếc).

Mặc dù “Tốc độ 34 chiếc bị bắn rơi trong 10 ngày qua thì 3 tháng sau B-52 của Mỹ sẽ tuyệt chủng” (Hãng Roi-tơ ngày 29 /12/1972). Nhưng 34 B-52 là con số khủng khiếp khiến Hoa Kỳ không thể chịu đựng nổi.

Vậy, giả sử không có Mỹ hậu thuẫn, Trung Quốc sẽ tấn công Philippines để chiếm bãi đá ngầm hiện đang tranh chấp, tỷ lệ bao nhiêu tàu ngầm, khu trục hạm, máy bay của Trung Quốc “mất sức chiến đấu” thì Trung Quốc sẽ chịu đựng không nổi, dù cho sau đó chiếm được bãi đá ngầm kia?

Không khó để phán đoán, bởi, người, thì Trung Quốc có thừa, chi vô tư, nhưng tàu ngầm… thì không nhiều bằng Mỹ.

Một trung đoàn hoặc sư đoàn bộ binh bị tiêu diệt không là gì, trong phút chốc thành lập lại ngay quân số và phiên hiệu. Nhưng khi một tàu ngầm hoặc khu trục bị đánh chìm thì chấn động rất lớn và phải tốn hàng năm mới khôi phục lại được.

Bởi thế, “tỷ lệ chung cuộc và hệ quả” trong các chiến dịch quân sự chắc Trung Quốc và Philippines đã chi li tính toán, cân nhắc.

Suy cho cùng, mọi cuộc chiến tranh đều bắt nguồn, xuất phát từ lợi ích. Nếu quốc gia nào đó có một sức mạnh đủ để giáng trả gây cho đối phương một giá đắt không chịu đựng nổi thì sẽ ngăn ngừa được chiến tranh.
DBS M05479
Quang Cao