Thứ Tư, 8 tháng 10, 2014

Giấy phép Creative Commons là gì?

Giấy phép Creative Commons là gì?

Giấy phép Creative Commons được tao ra bởi tổ chức phi lợi nhuận Creative Commons của Hoa Kỳ. Tổ chức này tạo ra Giấy phép Creative Commons với mục đích: giúp người dùng tự do chia sẻ, sử dụng hợp pháp những kiến thức, ý tưởng và sản phẩm. Giấy phép này ra đời vào ngày 16 tháng 12 năm 2002


Giấy phép Creative Commons là giấy phép quy định rõ người dùng có quyền được phép hoặc quyền không được phép trong khi sử dụng sản phẩm.

Nội dung trong Giấy phép Creative Commons ghi rõ quyền được sử dụng, quyền được sửa đổi, quyền đươc phát triển và quyền được phân phối lại sản phẩm đã được sửa đổi. Sản phẩm có thể là tài liệu, bài báo nghiên cứu, phần mềm, một bản nhạc, một đoạn video ...

Nội dung của Giấy phép Creative Commons có phần tóm tắt, ngắn gọn, dễ hiểu. Điều này thuận tiện cho tác giả của sản phẩm dễ đọc, dễ hiểu khi sử dụng giấy phép này. Khi đã hiểu nội dung Giấy phép này, tác giả có thể thay đổi, giới hạn quyền sử dụng sản phẩm theo ý muốn của mình.

Có mấy loại Giấy phép Creative Commons? 

Có 6 loại giấy phép Creative Commons: Tùy từng loại Giấy phép, tác giả sẽ sử dụng phù hợp với những quy định mong muốn của mình với sản phẩm.

a. Giấy phép Attribution CC BY


Giấy phép này cho phép cải tiến, chỉnh sửa, phát triển và phân phối sản phẩm. Nhưng sản phẩm vẫn phải ghi rõ "quyền tác giả" của người tạo ra sản phẩm đó. Các tài liệu, đoạn video, bản nhạc ... thường sử dụng loại Giấy phép này.

b. Giấy phép Attribution - NoDerivs CC BY ND

Giấy phép này cho phép phân phối lại sản phẩm, thương mại hóa và phi thương mại sản phẩm. Nhưng người sử dụng không được phép thay đổi, chỉnh sửa, phát triển sản phẩm. Đồng thời, sản phẩm vẫn được ghi rõ "quyền tác giả" của người tạo ra sản phẩm này.

c. Giấy phép Attribution - NonCommercian - ShareAlike CC BY-NC-SA

Giấy phép này cho phép chỉnh sửa, cải tiến và phát triển nhưng không được phép thương mại với sản phẩm. Sản phẩm mới sau khi cải tiến, phát triển phải được ghi rõ "quyền tác giả" của người tạo ra sản phẩm gốc. Nội dung Giấy phép này cho sản phẩm mới bắt buộc phải ghi rõ các quyền giống các quyền mà tác giả cũ của sản phẩm cũ đã quy định

d. Giấy phép Attribution-ShareAlike CC BY-SA

Giấy phép này cho phép chỉnh sửa, cải tiến, phát triển và phân phối. Sản phẩm mới sau khi được chỉnh sửa - cải tiến - phát triển từ sản phẩm gốc, sản phẩm mới vẫn phải ghi "quyền tác giả" của người tạo ra sản phẩm gốc. Các sản phẩm mới sau khi được chỉnh sửa - cải tiến - phát triển từ sản phẩm gốc, sản phẩm mới vẫn phải sử dụng loại Giấy phép này. Nội dung Giấy phép này cho sản phẩm mới bắt buộc phải ghi rõ các quyền giống các quyền mà tác giả cũ của sản phẩm cũ đã quy định

e. Giấy phép Attribution-NonCommercial CC BY-NC


Giấy phép này cho phép chỉnh sửa, cải tiến sản phẩm gốc và phát triển thành sản phẩm mới, nhưng không được phép thương mại với sản phẩm mới. Nội dung Giấy phép này ghi rõ "quyền tác giả" của người tạo ra sản phẩm mới, các quyền của người tạo ra sản phẩm mới không cần giống các quyền mà tác giã cũ đã quy định.

f. Giấy phép Attribution-NonCommercial-NoDerivs CC BY-NC-ND

Giấy phép này hạn chế quyền nhiều nhất trong 6 loại giấy phép Creative Commons. Giấy phép này chỉ cho phép người sử dụng lấy và chia sẻ sản phẩm. Nhưng người sử dụng này vẫn phải ghi rõ "quyền tác giả" của người tạo ra sản phẩm đó. Đồng thời, người sử dụng này không được phép thay đổi, chỉnh sửa, cải tiến, phân phối sản phẩm.

Lợi ích khi sử dụng giấy phép Creative Commons

Khi sử dụng Giấy phép Creative Commons, người tạo ra sản phẩm sẽ được nắm giữ "quyền tác giả" của sản phẩm này.
Người tạo ra sản phẩm được quyền thay đổi quyền sử dụng sản phẩm theo mong muốn của mình.

Khi người khác sử dụng trái phép sản phẩm của tác giả, dựa vào thông tin quy định tác giả sử dụng trong Giấy phép Creative Commons, tác giả có quyền kiện và bắt người sử dụng trái phép đó thực hiện đúng những điều khoản của tác giả đã nói trong giấy phép.

Dựa vào Giấy phép Creative Commons, Pháp luật sẽ bảo vệ "quyền tác giả" của người tạo ra sãn phẩm.

Quyền sở hữu trí tuệ

Quyền sở hữu trí tuệ là quyền mà tác giả được sở hữu những phát minh, ý tưởng, sản phẩm của mình tạo ra.

Bản quyền là gì?

Bản quyền là toàn bộ quyền lợi của tác giả với 1 sản phẩm mà người đó tạo ra. Quyền lợi này của tác giả bao gồm: quyền được sử dụng, quyền được chỉnh sửa, quyền được phát triển, quyền được mua bán sản phẩm và quyền được định đoạt với sản phẩm.

Khi tác giả tạo ra sản phẩm, tác giả đương nhiên có "bản quyền" với sản phẩm đó.

Bằng sáng chế và Giấy phép

  • Bằng sáng chế chứng minh "quyền sở hữu" ý tưởng, sáng tạo, sản phẩm của tác giả trong 1 thời hạn nhất định. Bằng sáng chế này sẽ do từng quốc gia cấp (tác giả xin cấp Bằng sáng chế ở quốc gia nào thì quốc gia đó sẽ cấp cho tác giả). Căn cứ vào Bằng sáng chế này, pháp luật của quốc gia đó sẽ bảo vệ quyền lợi của tác giả. Tùy từng quốc gia, người nào đăng ký Bằng sáng chế trước, người đó có "quyền sở hữu" với sản phẩm. Nếu người trước đã đăng ký Bằng sáng chế mà không còn tiếp tục hoạt động sáng tạo, phát triển ý tưởng và hoàn thiện sản phẩm, trong khi người sau vẫn đang tiếp tục nghiên cứu, phát triển sản phẩm, Bằng sáng chế này sẽ được chuyển cho người sau. Lúc này, "quyền sở hữu" sản phẩm, ý tưởng, sáng tạo thuộc về người sau. Khi có Bằng sáng chế, tác giả được quyền cấm người khác làm, sử dụng, bán, hoặc phân phối các sản phẩm, ý tưởng, sáng tạo mà không được phép trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia cấp bằng.

  • Giấy phép thể hiện rõ người dùng được phép làm gì hoặc không được phép làm gì với sản phẩm. Thông qua Giấy phép, người dùng sẽ biết và thực hiện đúng theo quy định của tác giả với sản phẩm đó. Phạm vi sử dụng Giấy phép là ở tất cả các Quốc gia. Giấy phép của sản phẩm luôn yêu cầu người dùng phải "ghi công" của tác giả.

Thứ Sáu, 19 tháng 9, 2014

Kính nhìn ban đêm quân đội nhân dân Việt Nam

Ống nhòm, ống ngắm bắn ban đêm - có lẽ nhiều người đã thấy... trên phim nước ngoài. Nhưng chắc ít người được biết, vừa qua nhóm nghiên cứu của Viện Vật lý và điện tử (Viện KH&CN Việt Nam) đã chế tạo thành công liền ba loại sản phẩm nhìn ban đêm: kính quan sát một mắt, kính quan sát hai mắt và kính ngắm bắn, giá thành rẻ hơn 35 - 50% so với sản phẩm tương đương nhập ngoại. Đây là những sản phẩm thành công của đề tài cấp nhà nước KC.05.04 "Nghiên cứu công nghệ chế tạo và lắp ráp các linh kiện quang học của thiết bị nhìn đêm dựa trên nguyên lý khuếch đại ánh sáng mờ".

Kính nhìn ban đêm quân đội Việt Nam

Do là sản phẩm công nghệ cao, chủ yếu dùng cho quân sự nên các loại kính ngắm và kính quan sát tầm xa ban đêm thường bị cấm xuất khẩu sang những nước ngoài khối NATO. Nếu có mua được thì giá thành cũng rất cao. Như loại thấp nhất là kính quan sát mini đã có giá 6.000USD, còn giá thành chuyển giao cho một loại kính ngắm thông thường cũng đã lên tới hàng triệu USD. Nếu chủ động nghiên cứu chế tạo kính nhìn ban đêm trong nước, không những giảm giá thành so với nhập nguyên chiếc mà còn có thể đa dạng hóa sản phẩm. Tuy nhiên việc nghiên cứu chế tạo kính nhìn đêm đòi hỏi sự phối hợp của nhiều lĩnh vực khoa học công nghệ cao mà hiện chỉ có một số nước công nghiệp phát triển là có khả năng thực hiện được.

Kính quan sát

Việc nghiên cứu ban đầu gặp rất nhiều khó khăn do đây là công việc hoàn toàn mới mẻ, trong khi ta lại thiếu cả cơ sở vật chất lẫn tri thức công nghệ, thiếu hẳn những ngành bổ trợ như cơ khí chính xác, vật liệu quang học và hóa chất, thiếu đội ngũ thiết kế, kỹ sư công nghệ và công nhân lành nghề. Đến nay Việt Nam vẫn chưa có định hướng phát triển, chưa có mã ngành khoa học. Chính vì vậy mà nhóm nghiên cứu phải xây dựng một quy trình công nghệ, từ những việc rất nhỏ như tiện ren, gia công chế tạo các cụm chức năng cơ khí... cho đến những công việc đòi hỏi kỹ thuật cao như nghiên cứu lý thuyết và quy trình tạo ảnh các chùm tia theo phân bố Gauss, thiết kế tối ưu các cụm chức năng, nghiên cứu và thực nghiệm các quy trình tạo vạch khắc trên bề mặt thủy tinh quang học... Tổng cộng có tới bảy lĩnh vực cần nghiên cứu, thử nghiệm: quang điện tử - laser; công nghệ màng mỏng, quang học kỹ thuật, cơ khí chính xác, điện tử, điều khiển tự động và xử lý ảnh. "Chúng tôi phải chủ động giải quyết triệt để tất cả mọi khâu từ nghiên cứu, thiết kế cho đến công nghệ chế tạo và lắp ráp cho hầu hết các chủng loại ống kính thiết bị nhìn đêm sử dụng các đầu thu khuếch đại ảnh thế hệ hiện đại" - TS Minh, chủ nhiệm nhóm nghiên cứu cho biết.

Kính đeo trán

Ban đầu là tìm nhập những loại đầu thu khuếch đại ảnh cho ống kính nhìn đêm, đây là một việc không dễ dàng bởi mặt hàng này nhiều nước cấm mua bán. Cuối cùng, nhóm nghiên cứu đã chọn mua loại đầu thu thế hệ XD-4. Loại đầu thu này không những có tính năng tốt mà còn rất bền. "Chính nhờ có quyết định đúng trong việc nhập loại đầu thu trên mà chúng tôi mới tạo được những ống kính thiết bị nhìn đêm đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đây còn là một định hướng chiến lược rất quan trọng cho các dự án đầu tư, nghiên cứu phát triển và sản xuất các ống kính thiết bị nhìn đêm ở trong nước, tránh mua phải dây chuyền lạc hậu" - TS Minh nói.
Những ai "chơi" máy ảnh đều biết, muốn nâng cao độ phân giải, độ nét sâu và độ sáng của các ống kính quang học thì phải tăng khẩu độ hay đường kính các thấu kính. Trong các thiết bị quang học cao cấp như ống kính cho camera chuyên dụng, ống kính chụp ảnh hàng không, telescope loại lớn... đường kính các chi tiết thấu kính và gương thường lớn hơn Ø100. Cho đến nay, các máy đánh bóng bề mặt quang học ở Việt Nam chỉ có khả năng gia công thấu kính có đường kính từ Ø 20 đến Ø 80. Muốn tạo được các chi tiết quang học có đường kính lớn hơn Ø 100, nhóm nghiên cứu phải đầu tư một thiết bị đo bán kính mặt cầu có độ chính xác nhất hiện nay, đồng thời thiết kế và chế tạo một máy mài và đánh bóng mặt cầu quang học lớn, một bộ gá tâm thấu kính và các dụng cụ đồ gá cho công đoạn mài rìa và khoan thấu kính với độ đồng trục cực chính xác.

Kính ngắm bắn đêm cho súng đại liên PKMSN

Để tăng độ nét và độ trung thực của màu sắc, một công đoạn khác rất công phu mà nhóm nghiên cứu phải tiến hành là chế tạo các hệ màng mỏng giao thoa nhiều lớp bằng phương pháp bốc hơi trong chân không. Lớp màng mỏng trông như lớp váng dầu trên thấu kính này có tác dụng giảm độ phản xạ, tăng độ truyền qua của mỗi mặt khúc xạ, ngoài ra nó còn có tác dụng bảo vệ bề mặt kính khỏi tác động của hơi ẩm, hơi nước biển hay nấm mốc phá hủy.
kính ngắm bắn đêm cho pháo Zu23-2, bắn mục tiêu mặt đất.

Cùng một loạt quy trình khác như thiết kế tối ưu các hệ thống ống kính đặc thù cho nhìn đêm, xây dựng bộ chương trình cải thiện chất lượng và xử lý hình ảnh, gia công chính xác cho các chi tiết cơ khí khó và phức tạp, đo đạc lắp ráp căn chỉnh ống kính và toàn bộ thiết bị, nhóm nghiên cứu đã chế tạo tương đối đầy đủ các chủng loại ống kính thiết bị nhìn đêm. Qua thử nghiệm trong một số cơ quan của Bộ Công an, sản phẩm kính quan sát một mắt của nhóm nghiên cứu có chất lượng ảnh tương đương với những mẫu tốt nhất cùng loại của nước ngoài. Loại kính nhìn đêm quan sát tầm xa mà nhóm nghiên cứu thiết kế chế tạo "vượt so với đăng ký" có độ phóng đại tới 45 lần. Ở chủng loại kính quan sát hai mắt, nhóm cũng chế tạo "vượt yêu cầu" mẫu kính gắn với mũ lái xe hoặc mũ phi công. Khi tháo kính ra khỏi mũ, nó được sử dụng như loại ống nhòm hai mắt, rất thuận tiện khi quan sát.


Riêng với chủng loại kính ngắm bắn, các chi tiết thấu kính và cơ khí phải có độ chính xác cao hơn hẳn so với loại dùng cho quan sát, chưa kể tất cả các cụm chức năng quang cơ điện tử laser của ống kính phải có kết cấu đặc biệt vững chắc để tránh xô lệch do lực rung rất mạnh khi bắn. Loại kính ngắm bắn mà nhóm nghiên cứu thiết kế chế tạo thành công có thể sử dụng cả ban ngày lẫn trong đêm, quan sát rõ mục tiêu ở tầm 350m.
Tất nhiên từ sản phẩm chế thử đến sản xuất hàng loạt lại là cả chặng đường dài. "Một việc tưởng như đơn giản nhưng lại phải đầu tư rất lớn là phòng sạch vô trùng lắp kính, hoặc buồng khử tĩnh điện khi lắp ráp các mạch điện tử, vật liệu phải tẩm sấy theo quy trình công nghệ để không bị chập mạch, kín khít nước và bảo ôn... chúng tôi vẫn chưa có. Nhưng quan trọng nhất, tất cả những gì thuộc chuyên môn, quy trình công nghệ thì chúng tôi đã nắm được" - Chủ nhiệm nhóm nghiên cứu nói.
DBS M05479
Quang Cao