Thứ Bảy, 27 tháng 4, 2013

5 lời khuyên khi chọn bộ nguồn cho máy tính

Bộ nguồn là thành phần bị coi nhẹ nhất trong 1 bộ máy tính.

Đa số người dùng sẽ mất nhiều thời gian cho việc chọn bộ xử lý mới, Card màn hinh và Motherboard , nhưng khi nói đến bộ nguồn thì hầu hết người mua thường chọn loại rẻ. Không nên như vậy. Bởi không quan tâm tới bộ nguồn, bạn sẽ trả nhiều tiền điện hơn và để cho các thiết bị trong tình trạng nguy hiểm.

Hiệu suất là tham số dùng để tính lượng năng lượng mà bộ nguồn cung cấp cho toàn bộ hoạt động của thiết bị và đơn vị của nó tính theo phần trăm . Tỉ lệ phần trăm này cho biết sự chênh lệch giữa lượng điện năng đầu ra và lượng điện năng đầu vào .Ví dụ, nếu bộ nguồn nào đó có hiệu suất là 80%, điều này có nghĩa là cần điện năng 200W ở đầu ra thì bộ nguồn này thực tế đã phải lấy 250W từ lưới điện (80% của 250W là 200W). Hiệu của 2 số lượng điện trên là 50W và nó hoàn toàn bị lãng phí- nhưng bạn vẫn phải trả nó.

Bộ nguồn với hiệu suất cao hơn sẽ có lượng điện năng hao hụt ít hơn . Nếu chúng ta thay thế bộ nguồn trên bằng cái khác với hiệu suât là 90%, chúng ta sẽ chỉ lấy 220W từ lưới điện và tiết kiệm 28W nếu so sánh với 1 cái với hiệu suất 80% . Cách này , bộ nguồn với hiệu suất cao sẽ giảm đáng kể số tiền điện mà bạn phải trả mỗi khi nhận hóa đơn tiền điện. Cách này, bạn nên chọn một bộ nguồn với hiệu suất cao nhất mà khả năng tài chính của bạn có thể cho phép.

Chúng tôi muốn 5 điều cơ bản cho 1 bộ nguồn:

1 Thứ nhất, đó là thiết bị “trung thực” nghĩa là những thông số kĩ thuật đưa ra khớp với thực tế khi hoạt động. Những thông số này được ghi rõ ràng trên vỏ hộp hoặc cũng như trong sách hướng dẫn nhưng thực tế nhiều người lại không xem kĩ . Những bộ nguồn được sản xuất cho thị trường Mỹ luôn luôn phải ghi chính xác nếu không muốn dính tới những vụ kiện cáo .

2 Thứ hai, chọn loại có hiệu suất cao nhất mà bạn có thể, như đã giải thích trên.

3 Điều thứ ba chúng tôi muốn là những đầu ra của bộ nguồn phải cung cấp giá trị cho phép ,mọi lúc. Ví dụ nếu bạn có bộ nguồn đáng lẽ cấp đầu ra 12V thì lại đưa ra 13V , điều này sẽ dẫn tới quá tải cho các thành phần trong máy và có thể dẫn tới máy tính bị treo và thậm chí bị cháy các bộ phận.

4 Chúng tôi cũng đề cập tới các đầu của bộ nguồn là “sạch” đến mức có thể, không có nhiễu điện hoặc bị biến động .

5 Cuối cùng bộ nguồn có được sự bảo vệ, nó sẽ tự tắt nếu có lỗi xảy ra, giảm thiểu rủi ro của việc các bộ phận của máy tính có thể bị cháy.

Dùng SSD để tăng tốc và cho thời gian làm việc với Ắc quy lâu hơn

Một trong những cách dễ dàng nhất để cải thiệt tốc độ của máy xách tay , độ tin cậy và thời gian sử dụng ăc quy đó là thay thế HDD truyền thống bằng SSD .


SSD ( Solid State Drive ) sử dụng bộ nhớ Flash NAND để lưu trữ dữ liệu . Trong HDD sử dụng những đĩa từ để lưu trữ dữ liệu nên có đầu từ Đọc / Ghi và Motor để quay đĩa và di chuyển đầu từ bằng những phương thức cơ khí . SSD thuận lợi hơn so với HDD vì nó 100% sử dụng linh kiện điện tử mà không dùng bất kì bộ phận cơ khí nào vì vậy có những lợi ích như sau :

· Tốc độ: tốc độ truyền dữ liệu của SSD nhanh hơn so với HDD vì không có thời gian trễ để di chuyển đầu từ .

· Độ tin cậy: HDD có thể bị phá hỏng nếu đánh rơi máy xách tay , Đầu từ có thể chạm vào bề mặt đĩa từ tạo nên những vùng bị chầy xước hoặc đầu từ bị gãy .

· Thời gian dùng ắc quy: SSD tiêu thụ điện năng ít hơn HDD do không cần bộ phận cơ khí .

Tuy nhiên SSD lại có những bất lợi sau :

· Dung lượng: bạn có thể dễ dàng tìm mua được HDD có dung lượng cỡ TeraByte , lớn hơn nhiều so với những SSD 256GB hiện đang có sẵn .

· Giá cả: SSD đắt hơn nhiều so với HDD . 256GB SSD có thể lên tới hơn 600USD , 1TB HDD có thể có giá 140USD chỉ bằng giá 32GB SSD

Nhưng nếu bạn đã nâng cấp bộ nhớ cho máy xách tay , là cách nâng cấp rẻ tiền nhất , và nếu thích thì có thể nâng cấp dùng với SSD khi ấy cần phải làm những gì ?

Cần mua SSD có cùng kích thước vật lí với HDD hiện đang có trong máy của mình : 2.5 inch hoặc 1.8 inch . Hãy kiểm tra nó bằng cách mở phần máy tính có gắn HDD , thường nằm phía dưới máy . Nếu thích có thể mua SSD với dung lượng lớn hơn so với HDD bạn hiện đang có .

Sau khi mua SSD , bạn cần sao chép những gì bên trong HDD cũ vào SSD mới của mình bao gồm Hệ điều hành , tất cả phần mềm và dữ liệu .

Tốt hơn hết bạn nên dùng SSD với Windows 7 vì đó là hệ điều hành hỗ trợ TRIM .



Một lựa chọn khác là thay thế nó một cách đơn giản và cài đặt mới Hệ điều hành và những chương trình . Khi ấy sẽ cần có những đĩa CD ( Hệ điều hành , chương trình phần mềm , Driver … ) và máy xách tay của bạn phải có ổ đĩa quang . Lựa chọn này phải rất khéo léo nếu bạn cài Windows XP , bởi vì một số máy xách tay lại chỉ dùng Windows Vista nên không có Driver cho Windows XP và thậm trí những Driver này lại không hề có trên trang Web của nhà sản xuất . Thật là tồi tệ khi cài đặt Windows XP mà lại không nhận dạng được ổ cứng . Giải pháp này là bạn cần tại đĩa CD mới cài đặt Windows XP tích hợp sẵn Driver Chipset cho Windows XP . Điều này bạn sẽ thực hiện được với chương trình nLite (http://www.nliteos.com) .

Nếu máy xách tay chỉ có một cổng để lắp ổ cứng nên không thể lắp hai thiết bị lưu trữ cùng một lúc vì thế bạn không thể dùng máy của mình để sao chép dữ liệu từ HDD sang SSD . Tuy nhiên hầu hết những máy xách tay hiện nay đều dùng giao diện SATA có nghĩa là có thể dễ dàng lắp HDD và SDD trên máy để bàn . Đó là cách dễ dàng nhất để sao chép nội dung từ một ổ này sang ổ kia mà không cần bất kì một Adaptor nào . Bạn hãy cắm hai ổ này vào trong máy để bàn và dùng phần mềm ( Clone ) để sao chép dữ liệu từ ổ này tới ổ kia .

Phần mềm Clone thông dụng như Norton Ghost (http://www.symantec.com/norton/ghost) hoặc Partition Master (http://www.partition-tool.com) .

Sau khi sao chép , lắp SSD vào máy xách tay và thưởng thức thành quả lao động của mình .

Chuyển đổi file Microsoft Word thành file âm thanh bằng AudioDocs

AudioDocs là một ứng dụng nhỏ của Windows và là chương trình mã nguồn mở trên SourceForge được thiết kế để chuyển tài liệu theo định dạng DOC/DOCX thành file âm thanh WAV .

Nó rất có ích nếu như bạn muốn chuyển những câu chuyện , tiểu thuyết , tiểu luận .... thành file âm thanh có thể nghe lại được .


Sau khi chọn file nguồn , bạn có thể lựa chọn giọng đọc phát âm của file âm thanh từ danh sách có sẵn và ngầm định là Microsoft David, Hazel và Zira .

Bạn cũng có thể thay đổi tốc độ đọc và mức âm lượng ở đầu ra . Bấm nút 'Create AudioDoc' để chuyển đổi file . Bạn không thể có lựa chọn thay thế cho định dạng file âm thanh ngoài định dạng WAV .

RFID hoạt động như thế nào

THẺ RFID DO CHÍNH PHỦ MỸ BAN HÀNH

Trong khi nhiều người tiêu dùng hạnh phúc - hoặc hiển nhiên - mua hàng hóa theo dõi với các thẻ RFID, một số người đang lên tiếng về luật của chính phủ liên bang bắt buộc hộ chiếu được nhúng với vi mạch RFID.

Ngày 14 tháng tám 2006, Bộ Ngoại giao Mỹ bắt đầu phát hành hộ chiếu điện tử, hoặc e-hộ chiếu. Thúc đẩy bởi cuộc khủng bố của ngày 11 tháng 9, năm 2001 Cục An ninh nội địa (DHS) đề xuất các hộ chiếu điện tử như là một biện pháp bảo đảm an toàn hàng không, an ninh biên giới và nhiều hơn nữa là hiệu quả làm thủ tục hải quan tại sân bay. Các tính năng bảo mật nâng cao của e-hộ chiếu - một mã số chip, chữ ký kỹ thuật số và ảnh hoạt động như một bộ nhận diện sinh trắc học– làm cho hộ chiếu không thể giả mạo.

Các hộ chiếu điện tử sẽ giúp cải thiện an ninh, nhưng với rất nhiều thông tin cá nhân được nhúng trong tài liệu này, đã có nhiều mối quan tâm lớn lên về tiềm năng trộm cắp danh tính của e-hộ chiếu. Hai hình thức có thể có của ăn trộm danh tính có thể xảy ra với các e-hộ chiếu là:

· Xem lướt sẽ xảy ra khi ai đó sử dụng một đầu đọc RFID để quét dữ liệu từ chip RFID mà không có sự nhận biết của chủ hộ chiếu địên tử.

· Nghe trộm xảy ra khi ai đó đọc các tần số phát ra từ chip RFID khi nó được quét bởi một đầu đọc chính thức.

Tuy nhiên, DHS các khẳng định rằng hộ chiếu điện tử hoàn toàn an toàn để sử dụng và các biện pháp phòng ngừa thích hợp đã được thực hiện để đảm bảo bí mật của người dùng.

· Để bảo vệ chống lại xem lướt, các hộ chiếu điện tử có chứa một thiết bị chống lướt bằng kim loại. Thiết bị này là một lá chắn vô tuyến chèn vào giữa bìa hộ chiếu và trang đầu tiên. Khi hộ chiếu điện tử được đóng lại, nó không thể được quét tất cả; khi mở, nó chỉ có thể được đọc bởi một máy quét nhỏ hơn 10 cm.

· Để bảo vệ chống lại nghe trộm, DHS đã yêu cầu tất cả các khu vực mà hộ chiếu điện tử được quét được bảo vệ triệt để và kèm theo để các tín hiệu không thể được đọc vượt ra ngoài đầu đọc RFID.

Các e-passport có giá 97 $. Trong khi chi phí này có vẻ đắt, chi phí lắp đặt đầu đọc RFID trong sân bay còn nhiều hơn đáng kinh ngạc. Thông qua hộ chiếu điện tử sẽ đòi hỏi phải thay đổi dần dần, nhưng chính quyền đã thảo luận về những gì được thêm vào tính năng bảo mật sinh trắc học và cải thiện các series tiếp theo của hộ chiếu điện tử.

Cuộc tranh luận về e-hộ chiếu lu mờ so với các cuộc tranh luận về cài chip vào con người. Tiếp theo, chúng ta sẽ tìm hiểu những gì vi mạch RFID đang làm trong sinh vật sống.

CÀI CHIP VÀO ĐỘNG VẬT VÀ CON NGƯỜI

Cài chip vào động vật không có gì mới - nông dân đã theo dõi động vật nhiều năm qua bằng cách sử dụng công nghệ RFID. Nhưng các công ty đang dùng cài chip động vật cho vật nuôi vào kinh doanh lớn, và một số công ty đang cung cấp các tùy chọn cho cài chip vào con người .



Hệ thống phục hồi thú nuôi RFID dựa vào vi mạch nhỏ cỡ một hạt gạo có chứa thông tin liên lạc của chủ sở hữu và lịch sử y tế của các con vật cưng. Quét bác sĩ thú y bị mất vật nuôi với một đầu đọc RFID để xác định vật nuôi có vi mạch hay không. Nhưng hệ thống có thể phá vỡ ở đây. Có rất nhiều hệ thống phục hồi thú nuôi cạnh tranh và do đó, nhiều vi mạch cho vật nuôi. Hoa Kỳ đã vận động để phát triển một đầu đọc RFID mà cựu chiến binh có thể sử dụng để đọc một vi mạch vật nuôi, bất kể nhà sản xuất hoặc năm sản xuất. Trong tháng 11 năm 2005, Tổng thống George Bush đã ký một dự luật cho việc tiêu chuẩn hóa các vi mạch vật nuôi và cơ sở dữ liệu quốc gia về thông tin chủ sở hữu thú nuôi.

Mặc dù FDA đã phê chuẩn cấy vi mạch RFID ở động vật và con người trong năm 2004, nghiên cứu từ năm 1996 cho thấy rằng những cấy ghép có thể gây ra ung thư ở chuột thí nghiệm . Cụ thể, cấy ghép gây ra sarcomas, làm ảnh hưởng đến các mô cơ thể. Chưa nghiên cứu nào chứng minh được bệnh ung thư có thể hình thành trong các động vật khác ngoài con chuột thí nghiệm, và vẫn còn quá sớm để nói các hiệu ứng của các chip trên con người. Mặc dù các bằng chứng này, các nhược điểm của cài chip trên con người có thể vượt qua lợi thế của nó.


VeriChip Corp đang dẫn đầu các doanh nghiệp chipping con người. Công ty này làm vi mạch với mã số duy nhất liên kết tới một cơ sở dữ liệu y tế VeriChip. Cơ sở dữ liệu VeriChip chứa thông tin liên lạc khẩn cấp và lịch sử y tế. Bệnh nhân có các vấn đề y tế nghiêm trọng, bệnh nhân Alzheimer là ứng viên lý tưởng cho VeriChip . Ngoài một lệ phí cấy chip duy nhất, lệ phí hàng năm của VeriChip dựa vào bạn muốn bao nhiêu thông tin trong cơ sở dữ liệu - bạn có thể chọn để có tên và thông tin liên lạc trên lịch sử y tế của bạn. VeriChip vẫn đang phát triển vì vậy không có đầu đọc RFID trong mỗi bệnh viện. Ngoài ra, các bác sĩ có thể không quét tất cả các bệnh nhân để kiểm tra chip, do đó, tùy thuộc vào bệnh viện hoặc bác sĩ, VeriChip của bạn có thể là vô ích.

Một VeriChip với tỷ lệ sự thành công cao hơn là Chương trình Bảo vệ trẻ sơ sinh Hugs. Theo hệ thống giám sát RFID, trẻ sơ sinh ở một số vườn ươm bệnh viện đeo vòng ở mắt cá với các con chip RFID. Nếu một người không được phép đang cố gắng để bắt cóc một em bé từ bệnh viện, chuông báo sẽ kêu tại trạm y tá và tại các cửa thoát.

NHỮNG LO NGẠI VỀ RFID

Như với nhiều công nghệ mới, người dân lo sợ những gì họ không hiểu. Trong trường hợp của RFID, người tiêu dùng có nhiều lo ngại, một số trong đó có thể là hợp lý. Cuộc tranh luận này có thể là một trong số ít các cuộc tranh luận mà công đoàn công dân tự do Mỹ và Những người theo thiên chúa giáo cùng chung quan điểm.

Chipping con người dường như chiếm lượng cao hơn gắn thẻ hàng hóa, và các nhà phê bình RFID lo ngại rằng chipping con người một ngày nào đó có thể trở thành bắt buộc. Khi công ty CityWatcher.com cài chip vào hai nhân viên của mình trong năm 2006, những nỗi sợ này tách ra khỏi kiểm soát. CityWatcher.com nhấn mạnh rằng các nhân viên đã không bị ép buộc để được bị cài- họ tình nguyện cho cấy ghép vi mạch để dễ dàng truy cập vào hầm bí mật được bảo đảm nơi các văn bản được lưu trữ hơn. Các nhân viên khác đã từ chối cấy ghép, và vị trí của họ với công ty đã không bị ảnh hưởng.

Bên cạnh những hạn chế của VeriChip thảo luận trong phần trước, cấy chip vào con người có ý nghĩa sâu sắc về quyền tự do tôn giáo và dân sự với một số người. Một số tin rằng cấy chip con người báo trước một lời tiên tri trong Kinh Thánh từ sách Khải Huyền, cho rằng các chip như là "dấu hiệu của quái vật." Với những người quan tâm tới quyền tự do dân sự, các chip cho chúng ta một bước gần hơn đến một xã hội Orwellian, trong đó mọi hành động và suy nghĩ của chúng ta sẽ được kiểm soát bởi Big Brother.



Trong khi chúng ta có thể chọn có hoặc không nên cấy các con chip RFID vào chính mình hoặc con vật nuôi, chúng ta đã có ít kiểm soát hơn về các thẻ đang được đặt trên các sản phẩm thương mại mà chúng ta mua. Trong cuốn sách "Spychips: Làm thế nào các Tổng công ty và chính phủ theo dõi tất cả các kế hoạch của bạn với RFID," Katherine Albrecht và Liz McIntyre mô tả các tác động cực đoan nhất của các thẻ RFID. Họ mô tả làm thế nào các thẻ RFID có thể được sử dụng để đánh giá thói quen chi tiêu của bạn và tài khoản ngân hàng để xác định c bạn nên tính phí cho các sản phẩm bạn mua là bao nhiêu. Điều này nghe có vẻ hoang tưởng, nhưng tin tặc đã chứng minh rằng một số các thẻ RFID có thể được làm giả mạo, bao gồm vô hiệu hóa tính năng chống trộm của chúng và thay đổi giá tương ứng với sản phẩm. Mã hóa tốt hơn là cần thiết để đảm bảo rằng hacker không thể nhận ra tần số RFID với râu siêu nhạy cảm.

Hơn nữa, một số nhà phê bình nói rằng tin vào RFID là phương tiện bảo mật chủ yếu có thể làm cho các trạm kiểm soát an ninh con người lười biếng và không hiệu quả. Nếu nhân viên bảo vệ chỉ dựa vào việc chống trộm thiết bị RFID trong hàng hóa và công nghệ nhận dạng RFID chính phủ cấp để theo dõi tội phạm hoặc khủng bố, họ có thể bỏ lỡ những hoạt động tội phạm xảy ra ngay trước mắt của họ.

Phân biệt DDR, DDR2 và DDR3 ?

Trước khi bắt đầu, bạn cần biết rằng DDR, DDR2 và DDR3 đều dựa trên thiết kế SDRAM ( Bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên động đồng bộ - Synchronous Dynamic Random Access Memory), tức là sử dụng tín hiệu xung nhịp để đồng bộ hóa mọi thứ. DDR là viết tắt của Tốc độ dữ liệu gấp đôi - Double Data Rate , tức truyền được hai khối dữ liệu trong một xung nhịp, . Như vậy bộ nhớ DDR có tốc độ truyền dữ liệu cao gấp đôi so với những bộ nhớ có cùng tốc độ xung nhịp nhưng không có tính năng này ( được gọi là bộ nhớ SDRAM, hiện không còn sử dụng cho PC nữa).

Nhờ tính năng này mà trên nhãn của những thanh nhớ thường ghi tốc độ tốc gấp đôi so với tốc độ đồng hồ xung nhịp thực . Ví dụ bộ nhớ DDR2-800 làm việc ở tốc độ 400 MHz, DDR2-1066 và DDR3-1066 làm việc ở tốc độ 533 MHz, DDR3-1333 ở 666.6 MHz ...



Hình 1: Tín hiệu xung nhịp và mode DDR

Cần nhớ rằng các tốc độ xung nhịp này là tốc độ tối đa mà bộ nhớ chính thức có được; chứ không thể tự động chạy ở những tốc độ như vậy. Ví dụ, nếu bạn dùng bộ nhớ DDR2-1066 lên một máy tính chỉ có thể (hoặc bị cấu hình nhầm) truy cập hệ thống ở tốc độ 400 MHz (800 MHz DDR), thì những bộ nhớ này chỉ có thể truy cập tại 400 MHz (800 MHz DDR) chứ không phải 533 MHz (1,066 MHz DDR). Đó là do tín hiệu xung nhịp được mạch điều khiển bộ nhớ cung cấp, mà mạch điều khiển bộ nhớ lại nằm ngoài bộ nhớ (trong Chip NorthBridge ở bo mạch chủ hoặc tích hợp bên trong CPU, tùy vào từng hệ thống ).

Trên lý thuyết, bộ nhớ DDRx-yyyy (trong đó x là thế hệ công nghệ, còn yyyy là tốc độ xung nhịp DDR) chỉ có thể sử dụng cho chip bộ nhớ.

Những thanh nhớ ( Module ) -- bảng mạch điện tử nhỏ gắn những Chip nhớ -- sử dụng một cái tên khác: PCx-zzzz, trong đó x là thế hệ công nghệ, còn zzzz là tốc độ truyền tải tối đa trên lý thuyết (còn gọi là băng thông tối đa). Con số này cho biết bao nhiêu Byte dữ liệu có thể được truyền từ mạch điều khiển bộ nhớ sang Module bộ nhớ trong mỗi xung nhịp đồng hồ .

Bài toán này rất dễ giải bằng cách nhân xung nhịp DDR tính bằng MHz với 8, ta sẽ có tốc độ truyền tải tối đa trên lý thuyết tính bằng MB/giây. Ví dụ, bộ nhớ DDR2-800 có tốc độ truyền tải tối đa trên lý thuyết là 6,400 MB/giây (800 x 8) và Module bộ nhớ mang tên PC2-6400. Trong một số trường hợp, con số này được làm tròn. Ví dụ như bô nhớ DDR3-1333 có tốc độ truyền tải tối đa trên lý thuyết là 10,666 MB/giây nhưng module bộ nhớ của nó lại có tên PC3-10666 hoặc PC3-10600 tùy nhà sản xuất.

Cần phải hiểu rằng những con số này chỉ là số tối đa trên lý thuyết, và trên thực tế chúng không bao giờ đạt đến, bởi bài toán chúng ta đang tính có giả thiết rằng bộ nhớ sẽ gửi dữ liệu đến mạch điều khiển bộ nhớ theo từng xung nhịp một, mà điều này thì không xảy ra. Mạch điều khiển bộ nhớ và bộ nhớ cần trao đổi lệnh (ví dụ như lệnh hướng dẫn bộ nhớ gửi dữ liệu được chứa tại một vị trí nhất định) và trong suốt thời gian này bộ nhớ sẽ không gửi dữ liệu.

Trên đây là lý thuyết cơ bản về bộ nhớ DDR, hãy đến với những thông tin cụ thể hơn.

Tốc độ

Một trong những khác biệt chính giữa DDR, DDR2 và DDR3 là tốc độ truyền dữ liệu lớn nhất của từng thế hệ. Dưới đây là danh sách tốc độ chung nhất cho từng thế hệ. Một số nhà sản xuất đã tạo ra được những loại chip lớn hơn cả tốc độ trong bảng–ví dụ như các bộ nhớ đặc biệt hướng tới giới overclock. Những xung nhịp có đuôi 33 hoặc 66MHz thực ra đã được làm tròn (từ 33.3333 và 66.6666).



Điện áp

Bộ nhớ DDR3 hoạt động ở điện áp thấp hơn so với DDR2, DDR2 lại dùng điện áp thấp hơn DDR. Như vậy bộ nhớ DDR3 sẽ tiêu thụ ít điện hơn DDR2, và DDR2 tiêu thụ ít hơn DDR.

Thường thì bộ nhớ DDR sử dụng điện 2.5 V, DDR2 dùng điện 1.8 V và DDR3 là 1.5 V (mặc dù các module cần đến 1.6 V hoặc 1.65 V rất phổ biến và những chip chỉ yêu cầu 1.35 V trong tương lai cũng không phải là hiếm). Một số module bộ nhớ có thể yêu cầu điện áp cao hơn trong bảng, nhất là khi bộ nhớ hỗ trợ hoạt động ở tốc độ xung nhịp cao hơn tốc độ chính thức (ví dụ như bộ nhớ để overclock).





Thời gian trễ

Thời gian trễ là khoảng thời gian mà mạch điều khiển bộ nhớ phải đợi từ lúc yêu cầu lấy dữ liệu cho đến lúc dữ liệu thực sự được gửi tới đầu ra . Nó còn được gọi là CAS Latency hoặc đơn giản là CL. Con số này được viết theo đơn vị chu kỳ xung nhịp. Ví dụ một bộ nhớ có CL3 tức là mạch điều khiển bộ nhớ phải đợi 3 chu kỳ xung nhịp từ lúc truy vấn cho đến khi dữ liệu được gửi. Với một bộ nhớ CL5, mạch điều khiển bộ nhớ phải đợi 5 chu kỳ xung nhịp . Vì thế cần sử dụng những Module có CL thấp nhất có thể.


Hình 2: Latency.

Bộ nhớ DDR3 có nhiều chu kì xung nhịp trễ lớn hơn bộ nhớ DDR2, và DDR2 lại có nhiều chu kì xung nhịp trễ cao hơn DDR. Bộ nhớ DDR2 và DDR3 còn có thêm một chỉ số nữa gọi là AL (Thời gian trễ bổ sung – Additional Latency ) hoặc đơn giản là A. Với bộ nhớ DDR2 và DDR3, tổng thời gian trễ sẽ là CL+AL. May thay gần như toàn bộ các bộ nhớ DDR2 và DDR3 đều có AL 0, tức là không có thêm thời gian trễ bổ sung nào cả. Dưới đây là bảng tổng hợp giá trị CL phổ biến nhất.



Như vậy bộ nhớ DDR3 cần hoãn nhiều chu kỳ xung nhịp hơn so với DDR2 mới có thể chuyển được dữ liệu, nhưng điều này không hẳn đồng nghĩa với thời gian đợi lâu hơn (nó chỉ đúng khi so sánh các bộ nhớ cùng tốc độ xung nhịp).

Ví dụ, một bộ nhớ DDR2-800 CL5 sẽ hoãn ít thời gian hơn (nhanh hơn) khi chuyển dữ liệu so với bộ nhớ DDR3-800 CL7. Tuy nhiên, do cả hai đều là bộ nhớ “800 MHz” nên đều có cùng tốc độ truyền tải lớn nhất trên lý thuyết (6,400 MB/s). Ngoài ra cũng cần nhớ rằng bộ nhớ DDR3 sẽ tiêu thụ ít điện năng hơn so với bộ nhớ DDR2.

Khi so sánh các module có tốc độ xung nhịp khác nhau, bạn cần phải tính toán một chút. Chú ý rằng chúng ta đang nói đến “chu kỳ xung nhịp.” Khi xung nhịp cao hơn, chu kỳ từng xung nhịp cũng ngắn hơn.

Ví dụ với bộ nhớ DDR2-800, mỗi chu kỳ xung nhịp kéo dài 2.5 nano giây, chu kỳ = 1/tần số (chú ý rằng bạn cần sử dụng xung nhịp thực chứ không phải xung nhịp DDR trong công thức này; để đơn giản hơn chúng tôi đã tổng hợp một bảng tham khảo dưới đây). Vì thế một bộ nhớ DDR2-800 có CL 5 thì thời gian chờ ban đầu này sẽ tương đương 12.5 ns (2.5 ns x 5). Tiếp đến hãy giả sử một bộ nhớ DDR3-1333 với CL 7. Với bộ nhớ này mỗi chu kỳ xung nhịp sẽ kéo dài 1.5 ns (xem bảng dưới), vì thế tổng thời gian trễ sẽ là 10.5 ns (1.5 ns x 7). Vì vậy mặc dù thời gian trễ của bộ nhớ DDR3 có vẻ cao hơn (7 so với 5), thời gian chờ thực tế lại thấp hơn. Vì thế đừng nghĩ rằng DDR3 có thời gian trễ tệ hơn DDR2 bởi nó còn tùy thuộc vào tốc độ xung nhịp. 



Thường thì nhà sản xuất sẽ công bố Timings bộ nhớ theo dạng một dãy số được phân chia bởi dấu gạch ngang (như 5-5-5-5, 7-10-10-10…). Thời gian trễ CAS thường là số đầu tiên trong chuỗi. Hình 3 và 4 dưới đây là một ví dụ. 



Hình 3: DDR2-1066 có CL 5.

Prefetch – Lấy trước dữ liệu

Bộ nhớ động chứa dữ liệu bên trong một mảng gồm nhiều tụ điện nhỏ. Bộ nhớ DDR truyền được 2 bit dữ liệu với mỗi chu kỳ từ mảng bộ nhớ tới bộ đệm I/O bên trong bộ nhớ . Quy trình này gọi là Prefetch 2-bit. Trong DDR2, đường dữ liệu bên trong này được tăng lên tới 4-bit và trong DDR3 là 8-bit. Đây chính là bí quyết giúp DDR3 hoạt động được ở tốc độ xung nhịp cao hơn DDR2, và DDR2 cao hơn DDR.

Xung nhịp mà chúng ta đang nói đến là tốc độ xung nhịp ở “thế giới bên ngoài,” có nghĩa là trên giao diện I/O từ bộ nhớ, nơi mà bộ nhớ và mạch điều khiển bộ nhớ liên lạc với nhau. Tuy nhiên bên trong thì bộ nhớ làm việc hơi khác một chút.

Để hiểu rõ hơn điều này hãy so sánh một chip bộ nhớ DDR-400, chip bộ nhớ DDR2-400 và Chip bộ nhớ DDR3-400 (cứ giả sử rằng bộ nhớ DDR3-400 có tồn tại). 3 chip này bên ngoài hoạt động ở tốc độ 200 MHz, truyền 2 bit dữ liệu mỗi chu ky, đạt tốc độ ngoài như thể đang hoạt động ở 400 MHz. Tuy nhiên bên trong, chip DDR truyền được 2 bit từ mảng bộ nhớ đến bộ nhớ đệm I/O, vì thế để khớp với tốc độ giao diện I/O, đường dữ liệu này phải hoạt động ở 200 MHz (200 MHz x 2 = 400 MHz). Do trong DDR2 đường dữ liệu này được tăng từ 2 lên 4 bit nên nó có thể chạy ở tốc độ bằng một nửa tốc độ xung nhịp nhằm đạt tốc độ y hệt (100 MHz x 4 = 400 MHz). Với DDR3 cũng vậy: đường dữ liệu được tăng gấp đôi lên 4 bit, vì thế nó có thể chạy ở tốc độ xung nhịp bằng một nửa so với DDR2, hoặc chỉ bằng ¼ tốc độ xung nhịp của DDR, và cũng đạt tốc độ như vậy (50 MHz x 8 = 400 MHz).


Hình 5: Prefetch dạng n-bit

Việc nhân đôi đường dữ liệu bên trong sau từng thế hệ đồng nghĩa với việc mỗi thế hệ bộ nhớ mới có thể có chip với tốc độ xung nhịp tối đa gấp đôi so với thế hệ trước đo. Ví dụ 3 bộ nhớ DDR-400, DDR2-800 và DDR3-1600 đều có cùng tốc độ xung nhịp bên trong bằng nhau (200 MHz).

Điểm đầu cuối trở kháng

Với bộ nhớ DDR, điểm cuối trở kháng có điện trở đặt trên bo mạch chủ, còn trong DDR2 và DDR3 thì điểm cuối này nằm bên trong chip bộ nhớ -- ngôn ngữ kỹ thuật gọi là ODT ( On-Die Terminal ) .

Việc này nhằm mục đích giúp tín hiệu trở nên “sạch hơn “ – ít bị nhiễu hơn do hạn chế tín hiệu phản xạ tại những diểm đầu cuối . Trong hình 6 bạn có thể thấy được tín hiệu chạm đến chip bộ nhớ. Bên tay trái là những tín hiệu trên một hệ thống sử dụng điểm cuối ở bo mạch chủ ( bộ nhớ DDR ), còn bên tay phải là tín hiệu trên một hệ thống sử dụng ODT (bộ nhớ DDR2 và DDR3). Và rõ ràng tín hiệu bên phải sẽ trong hơn và ổn định hơn bên tay trái. Trong ô màu vàng bạn có thể so sánh chênh lệch về khung thời gian – tức thời gian mà bộ nhớ cần đọc hay ghi một phần dữ liệu. Khi sử dụng ODT, khung thời gian này sẽ rộng hơn, cho phép tăng xung nhịp bởi bộ nhớ có nhiều thời gian đọc hoặc ghi dữ liệu hơn. 


Hình 6: So sánh giữa điểm kết trên bo mạch chủ và ODT.

Khía cạnh hình thức bên ngoài

Cuối cùng ta sẽ đến với sự khác biệt về thiết kế bên ngoài. Mỗi chip bộ nhớ đều được hàn trên một bo mạch vòng gọi là “module bộ nhớ.” Module bộ nhớ cho từng thế hệ DDR có sự khác nhau về thông số và bạn không thể cài module DDR2 lên khe cắm DDR3 được. Bạn cũng không thể nâng cấp từ DDR2 lên DDR3 mà không thay thế bo mạch chủ và sau đó là CPU, trừ khi bo mạch chủ của bạn hỗ trợ cả khe cắm DDR2 và DDR3 (hiếm đấy). Với DDR và DDR2 cũng vậy. Module DDR2 và DDR3 có cùng số chạc, tuy nhiên khe cắm nằm ở vị trí khác nhau.




Khác biệt về điểm tiếp xúc giữa DDR và DDR2



Khác biệt về tiếp xúc góc giữa DDR2 và DDR3.

Tất cả các chip DDR2 và DDR3 đều đóng gói kiểu BGA, còn DDR thì đóng gói kiểu TSOP. Có một số chip DDR đóng gói kiểu BGA (như của Kingmax), nhưng không phổ biến cho lắm. Trong hình 9 là một chip TSOP trên module DDR, còn hình 10 là chip BGA trên module DDR2.


Chip DDR gần như lúc nào cũng đóng gói kiểu TSOP



DDR2 và DDR3 đóng gói kiểu BGA.
DBS M05479
Quang Cao