Công ước quy định quyền và trách nhiệm của các quốc gia trong việc sử dụng biển, thiết lập các hướng dẫn rõ ràng cho các hoạt động kinh doanh, bảo vệ môi trường và cải thiện quản lý các tài nguyên thiên nhiên đại dương. Trước tình hình tranh chấp trên Biển Đông diễn ra căng thẳng như là một điểm nóng trên thế giới. Quan điểm trước sau như một của Việt Nam là giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình dựa trên luật pháp quốc tế cụ thể là UNCLOS.
Việt Nam sẽ có thêm 2 chiếc chiến hạm lớp Gepard 3.9 trong tương lai
Bởi vậy, UNCLOS là một công cụ hữu hiệu về mặt pháp lý để Việt Nam đấu tranh bảo vệ chủ quyền của mình, tranh thủ được sự ủng hộ đồng tình của thế giới. Những vấn đề cốt lõi mà Việt Nam dựa vào UNCLOS để đấu tranh bảo vệ chủ quyền: Thuận lợi là tất cả những nước có tuyên bố chủ quyền gây tranh chấp trên Biển Đông đều là thành viên của UNCLOS. Do đó, không có sự khác biệt về các khái niệm, nội dung… và sự khác biệt về cách giải thích không lớn, cho nên sự vô lý và có lý của các bên tranh chấp đều là rõ ràng, minh bạch. Như chúng ta đã biết, theo luật quốc tế, việc một quốc gia sở hữu một lãnh thổ trên biển sẽ cho phép có những đặc quyền đối với một phạm vi lãnh hải và EEZ (Vùng đặc quyền kinh tế). Việc các nước xung quanh Biển Đông tranh giành quyền sở hữu các đảo nhỏ và đảo san hô không có người ở và không thể sinh sống được tại Trường Sa và Hoàng Sa trước hết không phải nhằm giành chủ quyền các hòn đảo này mà là nhằm mở rộng EEZ. Việt Nam khác, chúng ta chủ yếu là vì chủ quyền. Trung Quốc tuyên bố quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của họ và theo đó “đường lưỡi bò” xuất hiện khi mở rộng EEZ 200 hải lý. Đương nhiên, đây là điều phi lý và ngang ngược, Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Trung Quốc đã lợi dụng để đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974 ai cũng biết. Quan điểm của Việt Nam dựa trên UNCLOS không coi Hoàng Sa và Trường Sa là quần đảo mà chỉ là nhóm các đảo.
Chiếc Kilo đầu tiên được dự định chuyển giao Việt Nam vào năm 2013, sau đó sẽ giao mỗi năm một chiếc cho đến năm 2018.
Thực tế, các vị trí nói chung ở Hoàng Sa, Trường Sa đa số không có đời sống kinh tế riêng, nên theo UNCLOS thì chúng không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa mà tối đa là có lãnh hải 12 hải lý (hoàn toàn phù hợp với lập trường chung của ASEAN). Khó khăn là: UNCLOS mang tính khái quát lớn của toàn thế giới nên khi áp dụng cụ thể vào từng khu vực thì có nhiều điểm rất mập mờ. Nhiều quốc gia khi áp dụng, lợi dụng vào những điều này để hiểu và giải thích theo cách của mình nhằm có lợi cho quốc gia nên “độ vênh” khá lớn. Theo UNCLOS, chúng ta khẳng định EEZ của chúng ta là 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Tuy nhiên, đường cơ sở mà Việt Nam tuyên bố ngày 12/5/1977 không phù hợp với UNCLOS ở một số điều quan trọng và nằm xa bờ một cách đáng kể so với một đường cơ sở phù hợp với UNCLOS (gồm 10 đoạn nối 11 điểm A1, A2, A3, A4, A5, A6, A7, A8, A9, A10, A11 ứng với các vị trí đảo Thổ Chu, hòn Đá Lẻ, Hòn Tai lớn, hòn Bông Lang, hòn Bảy Cạnh, Hòn Hải, Hòn Đôi, Mũi Đại Lãnh, đảo Hòn Căn, đảo Lý Sơn, đảo Cồn Cỏ). Trong vòng 2 năm từ khi Việt Nam công bố đường sơ sở, Mỹ, Trung Quốc, Pháp, Cộng hoà Liên bang Đức, Thái Lan phản đối đường sơ sở này. Nếu như nhiều nước không công nhận đường cơ sở thì đương nhiên vùng EEZ của Việt Nam 200 hải lý tính từ đó cũng bị nhiều nước phản đối, không chấp nhận. Vì vậy điều xảy ra là sự định vị EEZ của Việt Nam chưa được một số nước công nhận, đặc biệt là Trung Quốc, cho nên, đây là điểm dễ xảy ra tranh chấp nhất mà không biết lấy cơ sở nào làm chuẩn mực. Rõ ràng là nếu chúng ta tuyên bố vùng EEZ là 200 hải lý tính từ bờ thì điều đó đương nhiên không ai có thể phản đối. Vùng EEZ 200 hải lý là vùng mà bất kỳ thành viên UNCLOS cũng được hưởng. Vậy, vấn đề quan trọng để khẳng định vị trí vùng EEZ buộc thế giới công nhận là phải điều chỉnh đường cơ sở cho phù hợp với UNCLOS. Một số điểm không phù hợp với UNCLOS của đường cơ sở của Việt Nam tương tự dự luật HB 3216 của Philippines về đường cơ sở của họ. Philippines đã tự bác bỏ dự luật của họ thì Việt Nam cũng có thể điều chỉnh về đường cơ sở của mình. Tuy nhiên, xác định đường cơ sở là việc rất hệ trọng, bởi bên trong đường cơ sở là nội thủy, có chủ quyền tuyệt đối, liên quan đến an ninh quốc gia. Vì thế phải căn cứ vào khả năng, sức mạnh và độ tin cậy phòng thủ của đất nước. Đã 35 năm kể từ khi tuyên bố đường cơ sở, Việt Nam có thể tính toán để phục vụ cho một chiến lược lâu dài hơn, mang lại lợi ích quốc gia lớn hơn. Một quốc gia gây tranh chấp cậy thế nước lớn, ngang ngược, đe dọa dùng vũ lực như Trung Quốc thì quốc tế hóa tranh chấp, dùng Luật quốc tế để giải quyết là biện pháp đấu tranh tối ưu nhất. Khi yêu sách về EEZ của chúng ta được định vị rõ ràng phù hợp với UNCLOS thì sẽ được thế giới đồng tình, ủng hộ. Đấu tranh để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều thuận lợi. Tuy vậy, chúng ta cũng phải chuẩn bị cho tình huống xấu nhất có thể xảy ra. Sẵn sàng chiến đấu, hy sinh để bảo vệ vững chắc chủ quyền của chúng ta.