Chủ Nhật, 17 tháng 3, 2013

Tìm hiểu cách thức các đại gia công nghệ quản lý dữ liệu - Phần 2: Amazon

Nếu đem so sánh với Google thì Amazon - với hệ thống dịch vụ bán lẻ của mình - phải giải quyết rất nhiều vấn đề liên quan đến việc truy cập dữ liệu của các ứng dụng. Cơ cấu của hệ thống Dynamo mà hãng này sử dụng thực tế chưa bao giờ được chính thức công bố. Tuy vậy dựa trên những gì mà CTO (Chief Technology Officer) Werner Vogels của hãng này trình bày trên blog của mình hồi năm 2007, kết hợp với những thông tin về dịch vụ cơ sở dữ liệu DynamoDB của Amazon (ra mắt hồi 18/1 vừa rồi), chúng ta vẫn có thể phần nào nắm được cách mà hệ thống này vận hành.

Cũng là một gương mặt lớn trong thế giới công nghệ, hệ thống phần cứng mà Amazon đầu tư để phục vụ khách hàng có thể chưa đồ sộ được bằng Google, nhưng chắc chắn vẫn thừa sức khiến các datacenter thông thường phải ngả mũ kính nể. Điểm chung lớn nhất giữa Dynamo của Amazon và GFS của Google là việc chấp nhận đánh đổi một phần tính nhất quán của dữ liệu để có được tốc độ truy xuất, xử lý cao.



Tuy vậy, do dịch vụ chủ đạo của 2 hãng có khác biệt rất lớn (tìm kiếm vs bán lẻ), cách mà Dynamo và GFS “đối đãi” với dữ liệu cũng rất khác nhau. Hệ thống bán lẻ của Amazon cần cung cấp mọi thông tin sẵn có về một sản phẩm mà khách hàng yêu cầu, cũng như hiển thị mọi thông tin liên quan đến giao dịch như địa chỉ giao hàng, thông tin thanh toán.v.v. ngay trên môi trường web mà khách hàng đang thao tác.


Với những yêu cầu này, việc chỉ chú trọng đọc dữ liệu theo từng khối như GFS chắc chắn là không phù hợp, thay vào đó Dynamo cần đảm cho phép các ứng dụng web truy cập ngẫu nhiên đến từng file nhỏ nhất trên hệ thống trong mọi thời điểm. Tại hội nghị về nguyên lý hệ điều hành hồi tháng 10/2007, Vogel và nhóm kỹ sư của mình cho biết “Dynamo hướng đến việc quản lý các đối tượng dữ liệu rất nhỏ - thường có dung lượng chỉ dưới 1MB”.

Hơn thế nữa, thay vì được tối ưu phục vụ việc đọc dữ liệu, Dynamo luôn luôn ở trạng thái sẵn sàng để nhận các dữ liệu mới – nói cách khác là hướng tới việc cho phép các ứng dụng bên ngoài ghi dữ liệu bất cứ khi nào cần. Trái ngược hoàn toàn với GFS của Google trên đó các ứng dụng bên ngoài thường xuyên cần đọc dữ liệu để phân tích kết quả tìm kiếm cho người dùng. Như nhóm nhóm kỹ sư của Vogel đã viết trong buổi hội thảo “Trên đa số các dịch vụ của Amazon, việc chậm cập nhật thông tin mà người dùng nhập vào sẽ khiến chất lượng dịch vụ giảm đi rất nhiều trong mắt khách hàng. Ví dụ, tình trạng giỏ hàng của khách hàng cần được cập nhật chính xác mỗi khi học thực hiện bổ sung hoặc loại bỏ một sản phẩm trong đó, thậm chí ngay cả khi hệ thống server đang gặp trục trặc.”

Cách xử lý tính nhất quán của dữ liệu trên đây cũng có nét đặc biệt: quá trình kiểm tra tính nhất quán và đồng bộ dữ liệu sẽ chỉ được thực hiện khi phần dữ liệu đó được đọc ra, chứ không phải ngay khi ghi vào. Với cách tiếp cận này, mọi thao tác ghi của các ứng dụng sẽ không bao giờ bị từ chối (ít nhất là không bị từ chối vì các lý do về mặt đồng bộ), bất kể đó là thao tác ghi để bổ sung dữ liệu mới, hay ghi đè/thay đổi dữ liệu cũ.


Về giải pháp phân phối dữ liệu trên các thiết bị lưu trữ, do trước đó đã không ít lần phải dỡ khóc dở cười với phương pháp quản trị tập trung mỗi khi server quản trị (master) gặp sự cố, các kỹ sư của Amazon đã quyết định chuyển sang các phương pháp phân tán. Cũng đồng thời để tăng sự thuận tiện mỗi khi cần mở rộng hệ thống (số lượng dịch vụ mà Amazon bổ sung hàng năm vẫn đang tăng một cách chóng mặt). Hoàn toàn trái ngược với GFS, có thể nói hệ thống Dynamo mang nhiều nét của mô hình mạng ngang hàng peer-to-peer, thay vì dạng master-slave.

Dữ liệu của từng cụm lưu trữ của Dynamo được quản lý trên một vòng không gian địa chỉ, và mỗi đơn vị lưu trữ (bài viết gốc không nói rõ mỗi đơn vị này là ổ cứng, HDD stage rack hay server như Google) sẽ chịu trách nhiệm cho một phần của vòng không gian đó. Để dễ hình dung, hãy tưởng tượng không gian địa chỉ này là một chiếc hộp tròn được chia ngăn theo dạng các lát cắt bánh để cất đồ, và mỗi đơn vị lưu trữ kể trên là một ngăn trong đó.


Nếu bạn đã từng đọc qua hay xem hình ảnh về cấu trúc phiến đĩa HDD, cũng có thể nói nôm na đây là một đĩa cứng khổng lỗ trong đó dữ liệu được ghi theo từng sector hình học (Geometrical sector). Đồng thời, để đảm bảo gánh nặng công việc được phân chia một cách hợp lý giữa các đơn vị lưu trữ (từ đây sẽ gọi là node) cũ và mới; Amazon đã thiết kế để một node vật lý có thể được chia làm nhiều node ảo, cùng lúc đảm nhiệm vị trí trên nhiều cụm. Đến đây dường như ta đã có thể phần nào kết luận các node này là các server, tương tự GFS. Cũng tương tự như việc một nhân viên giỏi, năng động có thể cùng lúc nhận việc trong nhiều nhóm để tận dụng được hết năng lực.

Mỗi khi một node mới được bổ sung vào “bàn tròn” này, nó sẽ được cấp một giá trị đại diện cho vị trí, thứ tự của nó trong đó và sẽ bắt đầu chịu trách nhiệm cho một phần không gian nhớ. Các node có vị trí “bên cạnh” node mới đó sẽ phải co giãn đôi chút để điều chỉnh cho phù hợp. Cần nhớ rằng: mỗi node chịu trách nhiệm quản lý cho một lát cắt của không gian địa chỉ, còn dữ liệu trên các lát cắt riêng biệt vẫn có thể được sao lưu cho nhau – nếu không thì khả năng sao lưu, chịu lỗi của hệ thông Dynamo này sẽ chỉ là con số không to tướng. Nếu bạn chưa hiểu ý nghĩa của điều này, hãy nhìn vào hình minh họa của Amazon và xem tiếp giải thích về cơ chế ghi dữ liệu của Dynamo phía dưới:








Khi có yêu cầu “ghi” một đối tượng dữ liệu (một đoạn lời bình, hay một file hình ảnh.v.v.) vào hệ thống Dynamo, hệ thống sẽ gán cho nó một (khóa) key riêng biệt. Khóa này lại tiếp tục được sử dụng để sinh một chuỗi MD5 128-bit độc nhất, giá trị của chuỗi MD5 sẽ được dùng để xác định vị trí (hay đúng hơn là địa chỉ) mà dữ liệu đó sẽ được ghi trên vòng không gian nói trên. Đến đây, node chịu trách nhiệm cho vị trí đó sẽ làm mọi phần việc còn lại: cho phép thao tác “ghi” đó được tiến hành trên bản thân nó, đồng thời nhắc nhở các node xung quanh nó trong cụm chấp nhận thao tác ghi này (việc các node khác có lập tức chấp nhận hay không còn phụ thuộc vào tình trạng của chúng trong thời điểm đó). Như vậy dữ liệu sẽ được trải đều trên miếng bánh. Môĩ khi có sự cố xảy ra với một node, 2 người hàng xóm bên cạnh nó sẽ ngay lập tức nhận trách nhiệm cho phần địa chỉ mà node đó đang quản lý.

Lại nói tiếp về quá trình kiểm tra đọc dữ liệu từ Dynamo. Khi có yêu cầu “đọc” dữ liệu từ các ứng dụng bên ngoài, các thiết bị quản lý request (tương tự GFS client) trong hệ thống Dynamo sẽ gọi để kiểm tra xem node nào có chứa dữ liệu đó. Tất cả các node có chứa một bản sao của dữ liệu đó sẽ phản hồi, dĩ nhiên là kèm theo cả thông tin về “phiên bản” của dữ liệu mà chúng lưu.


Tùy theo tính chất từng loại request, thiết bị quản lý request (request handler) sẽ có cách xử lý khác nhau với các phản hồi này. Nếu dữ liệu đang được yêu cầu thuộc vào loại “có là được”, không cần quá chính xác (ví dụ như các file icon hình ảnh phục vụ giao diện), node đầu tiên trả lời sẽ lập tức được đưa vào sử dụng. Ngược lại mếu ứng dụng đang yêu cầu đọc thuộc vào nhóm cần dữ liệu mới nhất, chính xác nhất (ví dụ như ứng dụng quản lý giỏ hàng), request handler sẽ chờ tất cả các node phản hồi để đảm bảo tìm được ứng cử viên phù hợp nhất.


Ngoài ra, để đảm bảo đồng bộ dữ liệu, mỗi khi nhận được phản hồi từ nhiều node cho cùng một đối tượng dữ liệu, request handler sẽ ghép các thay đổi không xung khắc trên đó (ví dụ như thay đổi trên dòng 13 từ node A, thay đổi trên dòng 15 từ node B của cùng một file text sẽ được ghép vào với nhau); hoặc sẽ thông báo cho các node chứa dữ liệu với “phiên bản” quá cũ biết rằng nó cần cập nhật file đó từ đâu . Mỗi khi một node được thay thế bởi một thiết bị mới hơn, nó sẽ được ưu tiên cập nhật dữ liệu mới nhất từ các hàng xóm xung quanh.

Mô hình này đã được thực tế chứng minh là có khả năng hoạt động ổn định trong phần lớn các trường hợp, kể cả khi xảy ra trục trặc nho nhỏ trong hệ thống. Lần trục trặc duy nhất là vào tháng 8/2011 khi mà một số kỹ sư mạng của Amazon khi nâng cấp router đã sai sót khi chuyển hướng lưu lượng mạng để nâng cấp router. Lưu lượng cho việc sao chép dữ liệu của các node trong mô hình này là cực lớn, và sai sót khi chuyển hướng dòng chảy khổng lồ này vào một số thiết bị mạng yếu vốn chỉ dùng để phục vụ việc “bắt tay” giữa các node đã khiến toàn bộ các website của Amazon gặp trục trặc trong một thời gian ngắn. Nói chung, tuy Dynamo là một mô hình hiệu quả và đã tạo cảm hứng cho rất nhiều mô hình dữ liệu khác như Cassandra của facebook, đây không phải là một kiến trúc mà các datacenter hạng vừa, với nguồn lực tài chính, thiết bị cũng như nhân sự yếu kém có thể mơ đến.


Tham khảo: Arstechnica

Quảng cáo từ khóa trên Google chỉ tổ phí tiền

Các công ty Mỹ đã phải chi tới 14,8 tỷ USD quảng cáo trên công cụ tìm kiếm trong năm 2011. Nhưng họ không biết rằng điều đó đôi khi không thực sự cần thiết, mà còn khiến tốn tiền và tốn thời gian.



Các kết quả được hiển thị.

Đó là lập luận trong một bài báo nghiên cứu mới thống kê hiệu quả của các công cụ tìm kiếm tiếp thị cho eBay. eBay cho rằng hiệu quả của công cụ tìm kiếm tiếp thị (trả tiền để mua từ khóa tìm kiếm trên Google) đôi khi không hiệu quả như chúng ta vẫn tưởng. Các nhà nghiên cứu giải thích rằng quảng cáo tìm kiếm chỉ hoạt động nếu người tiêu dùng chưa xác định được công ty phù hợp cho sản phẩm họ đang muốn tìm kiếm.


Các nhà nghiên cứu cho biết những khách hàng có sự hiểu biết về các công cụ tìm kiếm trên internet sẽ hiểu được sự sắp xếp các sản phẩm trên, và do đó không bị ảnh hưởng nhiều bởi quảng cáo, có hay chăng chúng cũng chỉ gây chú ý hơn mà thôi. Nói cách khác, 14,8 tỷ USD có thể tạo ra lưu lượng truy cập đến một trang web, nhưng phần lớn truy nhập gia tăng một cách cưỡng bức. Các tác giả nhấn mạnh rằng nghiên cứu chỉ đúng với các thương hiệu nổi tiếng; và tất nhiên là các công ty nhỏ và có số người nhận biết thương hiệu thấp được hưởng lợi từ xuất hiện cao hơn trong một trang tìm kiếm.


Một phát ngôn viên của Google nói rằng nghiên cứu trên "hơi khác biệt so với bình thường", khi mà các chiến dịch quảng cáo đã đóng góp 89% lượng click vào quảng cáo tìm kiếm đến các trang web của nhà quảng cáo, nhưng chỉ một nữa trong số đó quay trở lại trang web đó ngay cả khi các web này được trả tiền để cho lên top đầu danh sách tìm kiếm.


Nhưng với nhiều người, kết quả của phòng nghiên cứu eBay đã giải đáp một thắc mắc có từ lâu. Đó là người dùng có chú ý tới phần quảng cáo khi xem kết quả tìm kiếm hay không.


Và thực ra có bao nhiêu người sẽ tìm kiếm Kindle trên Google thay vì đến thẳng trang của Amazon, hay sẽ có bao nhiêu người sẽ dừng lại và thực hiện thao tác tìm kiếm khi muốn mua bàn phím Steampunk Victorian "Diviner"





Công cụ tìm kiếm tiếp thị

Điều đáng ngạc nhiên là các nhà bán lẻ trực tuyến lớn đã không nhận ra điều này. Ví dụ, 10 hãng chi tiêu lớn nhất về quảng cáo trên internet đã chi 2,7 tỷ USD trong năm 2011.


Nhưng tại sao? Câu trả lời đơn giản là các nhà bán lẻ đang đếm số lượng những cú click chuột cho một trang web nhất định, cũng giống như họ sẽ tính toán lợi nhuận ứng với mỗi đồng vốn đầu tư ban đầu. Nhưng trong việc này, Ray Fisman chỉ ra trên blog của Harvard Business Review, bộ phận tiếp thị của những người khổng lồ bán lẻ trực tuyến đang "khó hiểu nguyên nhân và sự tương quan" trong việc đo lường lợi nhuận trên đầu tư quảng cáo của họ.




Sự nhầm lẫn này được duy trì bởi nỗ lực khuyến khích người mua quảng cáo của Google khi chia doanh số bán hàng thông qua các nhấp chuột cho chi tiêu quảng cáo, theo các nhà nghiên cứu eBay. "Không phải hầu hết các công ty tư vấn cung cấp công cụ phân tích tiếp thị thông qua việc sử dụng mô hình hồi quy dữ liệu, khuyến nghị từ công cụ phân tích của Google không thực sự phù hợp với thực tế," báo cáo của eBay. Công cụ này đã đóng góp phần đáng kể vào doanh thu quảng cáo hàng tỷ USD của Google mỗi năm.


Phát ngôn viên của Google cho biết: Kết quả giữa các nhà quảng cáo khác nhau rất nhiều và và bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, chúng tôi khuyến khích các nhà quảng cáo thử nghiệm với các chiến dịch của riêng họ.


Ông này bổ sung rằng Google cung cấp các công cụ như AdWords Campaign Experiments (Thử nghiệm chiến dịch quảng cáo từ khóa), Content Experiments (Thử nghiệm nội dung) và đề nghị một phương pháp thống kê cho các nhà quảng cáo để tiến hành các thí nghiệm riêng của họ tùy thuộc và điều kiện địa lý và đặc điểm vă hóa mỗi quốc gia.


Nhưng nếu phân tích của các nhà nghiên cứu thuộc eBay Research Lab chỉ ra là đúng, thì hẳn là công cụ tìm kiếm lớn nhất thế giới có thể cần một công thức mới và có thể là một mô hình mới.


Tham khảo : Qz

Top 7 công cụ miễn phí giúp "bảo trì" Windows



Khi nhắc đến các công cụ sửa chữa, kiểm tra tình trạng hệ thống, chúng ta thường nghĩ ngay đến sản phẩm của các tên tuổi lớn như Ashampoo, TuneUp, Acronis hay Aida. Tuy vậy trong rất nhiều trường hợp người dùng thường không tận dụng được hết tính năng của các sản phẩm trả phí mạnh mẽ từ các hãng này. Hơn nữa trong bối cảnh hiện nay, việc lạm dụng phần mềm lậu bất cứ khi nào có thể lthực sự không còn cần thiết. Trong bài viết này, chúng ta sẽ điểm qua một số công cụ miễn phí do Custompcreview bầu chọn, có thể chưa phải là tốt nhất, nhưng vẫn rất phù hợp cho đa số nhu cầu cơ bản của người dùng. Hơn nữa đa số đều có thể được sử dụng dưới dạng portable, bằng bản zip sẵn có do hãng sản xuất cung cấp hoặc đơn giản là bằng cách copy lại thư mục cài đặt.

1. HWinfo



Dù bạn có là fan trung thành của các phần mềm trả phí như Everest, AIDA hay các sản phẩm nổi tiếng từ CPUID như CPU-Z, HWMonitor thì vẫn có nhiều lí do để thử qua HWinfo. Công cụ nhỏ gọn này có khả năng hiển thị phần lớn thông số phần cứng cần thiết của hệ thống. Đồng thời khả năng truy cập các sensor một cách hiệu quả, xuất thông tin về CPU load, nhiệt độ, voltage dưới dạng biểu đồ cũng là một điểm cộng cực kỳ đáng kể.

2. Malware Bytes



Chúng ta vốn có rất nhiều phần mềm diệt virus, malware miễn phí, trong đó phải kể đến Spybot-search and destroy hay Malware Remover từ Iobit. Nhưng Malware Bytes, với khả năng quét bỏ malware khá mạnh mẽ, kể cả những mẫu malware thường bị bỏ qua bởi các trình anti-virus thông dụng cũng là một lựa chọn đáng để quan tâm. Ngoài việc nhanh và gọn nhẹ, điểm cộng lớn nhất là Malware Bytes hoạt động khá “trong suốt”, không gây xung đột với bất kỳ chương trình anti-virus hay anti-malware nào khác trong máy người dùng. Bất chấp khả năng quét mạnh mẽ của mình, nếu không thực hiện scan thì hầu như người dùng không thể nhận ra sự có mặt của Malware Byte trong máy.

3. ComboFix





Rootkit, con mồi khó nhai của các phần mềm bảo mật. Khi các trình anti-virus thông dụng hay các sản phẩm như Malware Bytes chịu bó tay trước một mẫu rootkit nào đó, đó là lúc ta cần đến những tay đao phủ hạng nặng như ComboFix. Với khả năng tàn sát của mình, ComboFix gần như sẽ đảm bảo những mã độc cứng đầu còn lại trong máy bạn sẽ được xử lý triệt để. Tuy vậy việc này cũng có tác dụng phụ, vì quá nặng đô nên đôi lúc ComboFix có thể sẽ “xử đẹp” cả các file hệ thống. Vì vậy khi được nhắc nhở về việc thực hiện hoặc cài đặt Windows Backup qua giao diện dòng lệnh của ComboFix, tốt nhất là chúng ta nên nghe theo.

4. JDisk Report





Nếu bạn từng phát mệt về việc thống kê dung lượng mà các thư mục phim ,ảnh, phần mềm của mình chiếm trên đĩa cứng mỗi khi thực hiện dọn dẹp, Jdisk là giải pháp đầu tiên cầu nghĩ tới. Với Jdisk trong máy, chúng ta sẽ không phải mất công click chuột phải vào hàng chục thư mục trong ổ cứng để ghi lại dung lượng nữa. Giao diện người dùng thân thiện của Jdisk cho phép chúng ta click trực tiếp vào các biểu đồ để tiếp tục xem % dung lượng của các thư mục con bên trong.

5. Treesize





Nếu bạn không thích giao diện của Jdisk hay đơn giản là cần nhiều thông tin hơn một chút, Treesize cũng là một lựa chọn không tồi. Giao diện của Treesize cung cấp nhiều cách hiển thị hơn (và cũng mất thời gian làm quen hơn một chút). Phần mềm cũng được cung cấp sẵn một phiên bản zip portable để chúng ta có thể cho vào USB đem đi bất cứ đâu.

6. Belarc Advisor





Belarc là một công cụ cung cấp thông tin hệ thống khác, nhưng có thêm khả năng hiển thị dữ liệu về các phần mềm đã được cài đặt. Ngoài ra, không thể không kể đến khả năng cung cấp thông tin về driver được cài đặt cho từng thành phần phần cứng trên máy. Các thông tin về phần mềm cũng rất hữu ích bao gồm từ địa chỉ cài đặt, thư mục đã truy cập gần đây thậm chí là cả thông tin về license của phần mềm. Ngay cả các bản vá bảo mật của Windows trên máy cũng được hiển thị với đầy đủ thông tin.

7. MagicDisc





Mặc dù nhiều người trong chúng ta đã quen với việc sử dụng Daemontools hay UltraISO, MagicDisc là một giải pháp thay thế khá gọn nhé. Tuy không có nhiều chức năng bằng UltraISO cũng như không có khả năng burn đĩa, giao diện của MagicDisc khá dễ hiểu và hoạt động ổn định trên đa số các phiên bản Windows.

Cách tránh virus và lừa đảo trên Facebook

Không nhấn chuột vào những đường dẫn đáng ngờ, không Like Fanpage vô tội vạ và tránh xa những cuộc thi có quà tặng khủng, tốn kém thời gian… để bảo vệ cho bạn và sử dụng Facebook hiệu quả hơn.




Mất tài khoản Facebook vì bấm vào đường dẫn lạ
Giả tặng Galaxy S IV miễn phí để 'câu Like' Facebook
Tránh xa đường dẫn lạ

Tình huống:

Hình thức phát tán chung của virus trên Facebook là những đường dẫn có phần đuôi lung tung, ký tự ngổn ngang trong các comment, status. Hiện nay phổ biến loại virus ẩn ở đường dẫn chứa trong status và bạn bè của chủ tài khoản đó cũng bị tag trực tiếp vào status này. Khi bị dính loại virus này, chủ tài khoản không còn làm chủ được việc cập nhật status nữa. Tuy nhiên, tất cả những tình huống virus Facebook đều xuất phát từ máy tính, trình duyệt mà thôi.

Cách xử lý:

Hãy đăng nhập tài khoản Facebook trên một máy tính khác và viết một status nói rõ cho bạn bè biết tình trạng bạn đang gặp phải trên Facebook để mọi người không nhấn vào.

Nếu tài khoản Facebook đang ở chế độ Online thì hãy chuyển sang Offline ngay để hạn chế virus không gửi đường dẫn đến bạn bè qua cửa sổ chat.

Sau đó, cài đặt một chương trình diệt virus mạnh trên máy bị nhiễm virus, cập nhật dữ liệu mới nhất, rồi ngắt kết nối Internet và quét virus. Bạn có thể cài đặt và thử nghiệm các phần mềm diệt virus như Trend Micro Titanium Internet Security, Kaspersky Internet Security hoặc BKAV. Đây là những phần mềm có bản quyền, song bạn có thể tải về dùng thử.

Tuy nhiên, “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, người dùng phải tinh ý để nhận diện những đường dẫn đáng nghi, tuyệt đối không nhấn chuột trong bất kỳ trường hợp nào, bởi vì chỉ một lần tò mò cũng sẽ đưa máy tính của bạn vào trạng thái khó cứu vãn.

Cách nhận diện:

Những đường dẫn chứa virus thường không có ảnh đại diện, tức bạn chỉ thấy đường dẫn chứ không có một tiêu đề đầy đủ hay một hình ảnh đứng trước đường dẫn. Ngoài ra, một số đường dẫn cũng chứa virus, nhưng dùng một tấm hình khiêu gợi làm ảnh đại diện khiến cho bạn tò mò nhấn vào.



Mới đây vừa xuất hiện tình trạng tạo Fanpage đăng thông tin ảo để “câu” Like. Ngoài ý đồ xấu của quản trị Fanpage, cũng phải nhắc tới lý do khác là sự tò mò, thiếu sáng suốt từ các người dùng Facebook. Không thể phủ nhận nhiều công ty, hãng sản xuất đã và đang tận dụng Facebook để quảng bá thương thiệu, thông qua những Fanpage cùng các cuộc thi, quà tặng hấp dẫn. Nhưng quà tặng luôn có một giới hạn nhỏ, chứ đến 4.000 chiếc điện thoại Samsung Galaxy S4 rõ ràng là quá "ảo" và người dùng đã bị làm “mờ mắt”. Chưa kể, nhiều lúc chính các Fanpage chính thức của những thương hiệu nổi tiếng cũng tạo nên những cuộc thi có quà tặng hấp dẫn, nhưng kết quả cuộc thi không minh bạch. Theo đó, những quà tặng giá trị sẽ được ban quản trị tìm cách nhận lại, còn người chơi thực tế chỉ có thể nhận được những quà tặng nhỏ, giá trị thấp, mang tính "khuyến khích tinh thần" là chính.

Thứ Sáu, 15 tháng 3, 2013

Ka-52 Alligator “Cá sấu Mỹ”

Thắng lợi của các hoạt động mặt đất trong các cuộc chiến tranh hiện đại, nhất là những cuộc chiến tranh xảy ra gần đây đã chứng minh vai trò yểm hộ quan trọng của lực lượng trực thăng lớn cho bộ đội mặt đất và đồng thời, rất hiệu quả trong tìm và diệt xe tăng. Trực thăng Ka cũng được thiết kế cho những mục đích như thế: được trang bị hệ thống định vị và xác định mục tiêu, hỗ trợ quan sát cho phi công, hệ thống thông tin liên lạc với trung tâm chỉ huy trên mặt đất. Trên trực thăng Ka, phi công được hỗ trợ rất nhiều nên việc điều khiển máy bay trong chiến đấu dễ dàng hơn.

Chiếc Ka-52 “Cá sấu Mỹ”, được thiết kế là loại trực thăng hoạt động trong mọi thời tiết, do đó nó được thiết kế có hai người lái, giữ nguyên các tính năng chiến đấu của Ka-50, cả về vũ khí. Phi công cùng với các trang bị như quần áo và mũ bay cũng là những thiết bị hỗ trợ kết hợp với các thiết bị lắp trên máy bay như hệ thống nhận biết mục tiêu địch – ta, định vị mục tiêu trong cả ban ngày lẫn ban đêm trong mọi điều kiện thời tiết.Tham gia vào dự án còn có các tổ hợp của Pháp: Sextant và Thomson. Chiếc Ka-50 giữ được 85% cơ sở của Ka-50: sát-xi, động cơ… Trực thăng cũng được trang bị hệ thống thoát hiểm cho phi công. Chiếc Ka-52 cũng được sử dụng như trực thăng huấn luyện.

Ka-52 nặng hơn Ka-50 do đó làm thay đổi chút ít tính năng bay – kỹ – chiến thuật của nó. Tuy nhiên, điều đó không ảnh hưởng quá lớn đến tổng thể chiếc trực thăng.

Ngoài ra, chiếc Ka-52 khác “người tiền bối” của nó ở phần trước của thân máy bay, hình dạng buồng lái và việc bố trí quan sát 360o vòng quanh của phi công và hệ thống ngắm.

Mũ bay của phi công cũng có thiết bị quan sát và thông báo đặc biệt, mọi thông tin của máy bay và các thông tin chiến trường khác được hiển thị lên màn hình trong mũ bay trước mắt phi công – tương tự như những mũ bay đang được Không quân Mỹ sử dụng, nhưng đơn giản, rẻ tiền hơn và dùng lẫn được, hiệu quả không kém. Ở trên các máy bay trực thăng AH-64D và AH-64D LongBow, mũ bay phức tạp, đắt tiền và không thể dùng lẫn, nhưng hơn hiệu quả loại của AH-64A Apache.

Với những đặc điểm đó, chiếc Ka-52 là một trong những trực thăng hàng đầu.


Với giá thành không quá cao như các loại tương đương của NATO và Mỹ, chiếc Ka-50 là không có đối thủ về các tính năng kỹ – chiến thuật.

Thiết bị điện tử:

Hệ thống bay tự động và hiển thị HUD (head-up display) giống trên Mig-29. Bộ cảm biến hồng ngoại FLIR (forward-looking infrared) và ra-đa dẫn đường…

Động cơ:

Chiếc Ka-50 được trang bị hai động cơ TV3-117VMA tua-bin, mỗi chiếc có thể phát động một công suất 2.200 ngựa.

Trang bị vũ khí:

Ka-50 có thể trang bị vũ khí cho chiến đấu trên mặt đất, cũng như các hoạt động phối hợp với các hoạt động trên biển. Do đó tải trọng của máy bay có thể cho phép nạp đến hai tấn vũ khí: tên lửa chống xe tăng, rốc-két không đối không (không có dẫn đường) các cỡ, tên lửa không đối không, pháo, bom và các loại vũ khí khác.

Trực thăng có đến bốn hệ thống treo phụ dưới cánh, có thể treo được nhiều thứ vũ khí, đồng thời có thể treo được pháo 23mm hoặc thùng nhiên liệu phụ. Ở chỗ này có thể treo được tới 12 tên lửa chống tăng siêu âm Vichr, có thể tiêu diệt mục tiêu từ khoảng cách tới 8 ki-lô-mét. Sức xuyên của loại tên lửa này hết sức lớn, có thể xuyên được thép dày tới 900mm.

Trực thăng Ka-50 còn được trang bị khai khẩu pháo bắn nhanh 30mm 2A42, dùng để bắn mục tiêu cả trên không lẫn dưới đất, hai pháo này có 460 viên đạn hai dạng: đạn nổ và đạn xuyên, có thể lựa chọn trong chiến đấu. Khối lượng của đạn là 0,39 ki-lô-gam/viên, sơ tốc 980 mét/giây và có thể bắn từ khoảng cách 4 ki-lô-mét. Góc bắn của pháo từ 2 đến 4 ra-đi-an mét .

Động cơ tua-bin đồng trục của trực thăng cho phép nó đạt trần bay 4000 mét, tốc độ lên cao 10 mét/giây ở độ cao 2500 mét. Các cánh quạt được làm bằng chất liệu pô-li-me, nhẹ và bền chắc. Kết cấu hai chong chóng của trực thăng đã đảm bảo cho tính cân bằng của nó.

Hai động cơ được lắp trên hai vị trí cách xa nhau làm giảm khả năng bị trúng đạn hỏng cả hai chiếc. Máy bay có thể tiếp tục hoạt động trong 30 phút từ khi hết nhiên liệu, cho phép phi công kịp thời hạ cánh ở một chỗ an toàn, trong trường hợp đạn trúng thùng nhiên liệu. Buồng lái có thể bảo vệ phi công khỏi đạn 12,7mm và mảnh đạn pháo 23mm. Ngay cả các cánh quạt của hai chong chóng cũng có cơ cấu tự bảo vệ cho phép máy bay vẫn có thể bay được trong trường hợp bị trúng đạn. Thùng xăng có cơ chế tự hàn, phòng ngừa trường hợp đạn bắn trúng. Tất cả hệ thống của động cơ được giảm nhiệt đến mức tối đa để tránh tên lửa tìm diệt bằng nhiệt của đối phương.

Ka-50 còn có hệ thống thoát hiểm đầu tiên trên thời gian, cho phép phi công thoát ra khỏi máy bay trong mọi độ cao và tốc độ: hệ thống phóng phản lực K-37-800 được sản xuất bởi Công ty cổ phần Nghiên cứu và sản xuất Ngôi Sao ở Mát-xcơ-va, được kết hợp với bộ cứu hộ NAZ-7M dùng hệ thống dù PS-37A, cho phép trong trường hợp khẩn cấp tự động bắn phi công ra (ở tốc độ từ 0 đến 350 ki-lô-mét/giờ, ở độ cao từ 0 đến 6000 mét).

Kích thước

Đường kính cánh quạt :14.5 mét

Chiều dài cả chong chóng :15.9 mét

Chiều cao tổng thể :4.9 mét

Sải cánh :7.3 mét

Khối lượng rỗng :7,692 kg

Khối lượng cất cánh bình thường :9,800 kg

Khối lượng cất cánh cực đại :10,800 kg

Khối lượng vũ khí thường mang :610 kg

Khối lượng vũ khí thường cực đại có thể mang ;1,811 kg

Động cơ ower plant

Hai động cơ TV3-117VMA .2 x 2,200 ngựa

Tính năng bay

Tốc độ bay bằng tối đa :310 km/h

Tốc độ bổ nhào :390 km/h

Tốc độ kinh tế :270 km/h

Độ cao hoạt động :4,000 mét

Trần bay :5,500 mét

Tốc độ lên cao ở độ cao 2,500 m :10 m/s;

Tầm bay với khối lượng cất cánh bình thường :460 km



Đây là nhận xét về máy bay tiger vả Nato và Mỹ so với của Nga :

Tiger có tốc độ tối đa thua kém khá nhiều so với các loại trực thăng cùng chức năng của Mỹ và Nga. Tiger chỉ có thể đạt tốc độ tối đa 315 km/h (khi không mang vũ khí), kém xa Apache của Mỹ (365 km/h) hay Mi-28 (324 km/h) và Ka-50 (390 km/h) của Nga.

Đổi lại, Tiger có khả năng cơ động và tầm hoạt động (800 km) khá tốt, cho dù vẫn chưa thể so được với trực thăng Ka-50 của Nga.
DBS M05479
Quang Cao