Thứ Sáu, 4 tháng 1, 2013

Tạm biệt nhé tháng 12!

Tháng 12, một ngày cuối năm. Tóc buông nhẹ qua những con đường quen thuộc, chợt nhặt được những mảnh ký ức đã từng để quên đâu đó trong cuộc đời!
Tạm biệt nhé,

Những giai điệu nhẹ nhàng của Goodbye – Air Supply vang lên choáng ngợp căn phòng bé nhỏ. ngồi lặng trong căn phòng nhỏ, nhâm nhi một tách café và lặng lẽ nghĩ về những điều đã qua…

Hiện tại,

Tháng 12. Bao lo toan với bộn bề thi cử, đầy tay một ôm ký ức, nhưng rồi vô tình buông ra vì quá nhiều thứ phải làm. Một chiều bước đi trên con đường đầy lá sake, chợt nhận ra hoa nắng dịu dàng sóng sánh bước chân mình. Nó mới chợt nhớ ra những dự định nhỏ to đang còn trơ trọi, chưa được bàn tay người chăm sóc, thực hiện. Cuối năm rồi, vòng quay thời gian cứ thế trôi đi không đợi con người ta kịp thực hiện tất cả.

Nhìn lại những ký ức mỏng manh buộc mình phải gắn chặt, thoáng đến rồi thoáng đi rồi lại bất chợt ùa đến như chiếc kim phút, không quay liên tục như kim giây, cũng không báo cho người ta biết mốc thời gian cố định như kim giờ. Từng phút một trôi qua trong lặng lẽ, trong êm ả, để rồi lúc cần thiết, lòng người mới chợt thổn thức rằng mỗi phút qua đi cũng quan trọng như dòng ký ức đã rơi mất, lăn lóc hết bao tháng ngày.

Quá khứ,

Một năm qua, nó đã quen bầu bạn cùng với nụ cười đơn lẻ, đến nửa lời than thở cũng chẳng dám buông. Đơn giản vì ở nơi đất khách, quê người, con người ta không được phép yếu đuối, không được phép giữ cái tôi của mình ngang tàn mạnh mẽ!

Chợt thấy thương bố mẹ, đã lắm lúc không để ý đến cảm xúc của bậc sinh thành, cứ thế gân cổ lên để bao biện cho tất cả những việc mà khối óc non nớt cho là đúng, là không bao giờ sai. Để rồi… khi đã đủ khôn lớn và biết rằng những ký ức ấy là bài học cho đời thì mới chợt nhận ra ký ức ấy đã để lại cho bố mẹ những nỗi buồn hằn trên trán, trên mái tóc lấm tấm sợi bạc. 



Có ai đó nói rằng, con người như một chiếc đồng hồ cát, khi trái tim chảy hết dòng ký ức xuống thì lý trí đầy và ngược lại. Một năm qua, bước vào môi trường sống mới, tự dặn mình phải để lý trí lên trên hết để rồi, khi lý trí giành phần hơn quá nhiều thì con tim lại khóc òa đau như xé. Lắm lúc vô tâm quên rằng con tim cũng cần được đong đầy.

Một năm trôi qua. Nó biết, mọi sự xảy ra đều không nên đổ lỗi cho hoàn cảnh. Và cuộc đời bao giờ cũng thế, dù trong sỏi đá thì cỏ dại kiêu kì vẫn dạn dĩ đơm hoa. Còn cuộc đời thì còn niềm vui, cứ cười lên để cho nỗi buồn không còn nơi trú ngụ.

Một năm trôi qua, nó biết, mình đã lớn nhiều rồi, biết học cách mỉm cười với khó khăn của cuộc sống, biết ngừng than vãn, thôi ân hận hay dằn vặt bản thân để sang năm mới bắt đầu chinh phục từng bước khó khăn, thử thách bằng chính nghị lực và cố gắng từng ngày.

Tháng 12. Không mặc vừa chiếc áo cũ, thấy mình khác đi nhiều. Lớn hơn, da ngăm hơn. Chợt nhận ra mình hình như đã dạn dĩ hơn với cuộc đời. Không còn sợ nắng làm đen da, cứ hoạt động một cách hết mình để trở thành con người có ích, có trách nhiệm. Không còn cứ mong bé lại để được yêu chiều, mà muốn lớn nhanh hơn để có thể làm được những việc mà trẻ con không làm được, muốn cho bố mẹ một chỗ dựa khi về già.

Tháng 12. Cái lạnh vừa đủ để thấy lòng luôn kiếm tìm hơi ấm của một ai đó. Xa gia đình – điểm tựa duy nhất lúc bé - mới cảm thấy lạnh buốt lòng khi nhìn những đứa trẻ không có nơi nào để về. Nhìn những ánh mắt van lơn từng đồng bạc của người đi đường trong mỗi chiều gió lộng, chợt đau nhói nơi con tim. Cuối năm rồi, nhưng không biết đến bao giờ mới là ngày mới – một ngày rất khác của những mảnh đời cơ cực ấy.

Hiện tại,

Ngày cuối cùng của năm, nó tự hỏi nếu lòng mình là một khoảng trống thì biết làm sao để đong đầy con tim? Lại tự hỏi, nếu tim mình là một khoảng trống thì lý trí có tồn tại được hay không? Phải làm sao đi hết những chông chênh của tuổi 20 đầy hoài bão, ký ức và tham vọng?

Ngày cuối cùng của năm, chợt vỡ òa niềm hạnh phúc khi mở mắt ra thấy mình đang nằm trên chiếc giường thân quen, khung cửa sổ với những con hạc giấy và vài chiếc vòng dream catcher do mình tự làm. À, chợt nhận ra giấc mơ đã kết nối những mảnh ghép ký ức của mình trong suốt một năm qua.


Tương lai,

Có những giấc mơ không chỉ đơn giản là giấc mơ, nó còn là nỗi lòng của chính bạn cho khoảng thời gian vô tình quên lãng. Để rồi, chỉ cần bạn muốn nó liên kết lại, chỉ cần để tâm hồn ở trạng thái an hòa nhất và đặt nó ở thời gian ý nghĩa nhất… chúng ta sẽ tìm lại được những mảnh ký ức đã nhạt nhòa qua thời gia.

Tháng 12, một ngày cuối năm. Tóc buông nhẹ qua những con đường quen thuộc, chợt nhặt được những mảnh ký ức đã từng để quên đâu đó trong cuộc đời!

Chào nhé, những giọt nước mắt, những niềm vui như vỡ òa và những hạnh phúc mong manh ngỡ như chưa bao giờ chạm tới...

Và đến đây đi, một năm mới tràn ngập tiếng cười và hạnh phúc!


Sống tích cực - Đơn giản là ngước nhìn lên cao!

Khi không có giải pháp nào xuất hiện ngay trước mắt, thì con người rất dễ kết luận rằng không có một giải pháp nào cả. Nhưng thực tế đã chứng minh, từ lần này sang lần khác, rằng giả thuyết đó là sai lầm...
Bạn hãy nghe những câu chuyện này nhé...

Chuyện về loài chim ó:

Nếu bạn đặt một con chim ó vào một chiếc lồng, với kích thước khoảng 2m x 2,5m, và hoàn toàn không có nóc, tức là phần trên được mở toang; thì cho dù vẫn có khả năng bay lên, nhưng con chim này sẽ hoàn toàn trở thành một... tù nhân.

Lý do là một con chim ó luôn bắt đầu bay từ mặt đất lên, với đoạn “chạy đà” khoảng 3- 4m. Không có quãng đường để chạy, thì theo thói quen, chú chim thậm chí chẳng buồn cố gắng thử bay lên, mà sẽ chấp nhận bị cầm tù suốt đời, trong một “nhà giam” nhỏ chẳng hề có mái!




Câu chuyện về con dơi:

Một con dơi bình thường luôn bay ra ngoài vào buổi tối. Nó là một sinh vật nhanh nhẹn, linh lợi đến mức ấn tượng.

Tuy nhiên, nó không thể cất cánh từ một địa điểm bằng phẳng. Nếu nó được đặt trên sàn hoặc một mặt phẳng, thì tất cả những gì nó có thể làm là lê bước loanh quanh một cách vô vọng, và, tất nhiên, một cách đau khổ.

Cho đến khi nó tìm được một độ cao nào đó, chỉ cần là một góc nâng nhỏ thôi, để từ đó, nó có thể tung mình vào không trung. Và, ngay lập tức, nó bay lên như một tia chớp.

Câu chuyện về loài ong nghệ:

Một con ong nghệ, nếu bị thả vào một cái cốc lớn không có nắp, cũng sẽ ở đó cho đến khi chết, trừ phi chúng ta lôi nó ra.

Nó không bao giờ nhìn thấy đường thoát ở phía trên, mà cứ khăng khăng cố gắng tìm cách nào đó thoát ra qua các mặt bên, hoặc qua... đáy cốc. Nó sẽ tìm một con đường ở nơi mà không có con đường nào tồn tại, cho đến khi nó hoàn toàn tự hủy hoại mình.


Câu chuyện về con người:

Theo rất nhiều cách, chúng ta cũng giống như con chim ó, con dơi và con ong nghệ. Chúng ta vật lộn với tất cả các vấn đề rắc rối và tuyệt vọng của mình, mà không bao giờ nhận ra rằng rất có thể một giải pháp ở rất gần, chỉ cần chúng ta nhìn lên cao hơn – hay nhìn hướng tới phía trước.

Nhìn ngược lại có thể khiến bạn buồn bã. Nhìn quanh có thể khiến bạn lo lắng. Hãy nhìn lên cao, và nhìn tới phía trước, đó là cách sống lạc quan. Và tinh thần tích cực, nhiều hy vọng chính sẽ giúp bạn tìm ra giải pháp trong hầu hết các trường hợp.




Có một tác giả đã viết: “Khi không có giải pháp nào xuất hiện ngay trước mắt, thì con người rất dễ kết luận rằng không có một giải pháp nào cả. Nhưng thực tế đã chứng minh, từ lần này sang lần khác, rằng giả thuyết đó là sai lầm”.


Chỉ cần bạn nhìn lên cao hơn, rộng hơn tình huống hiện tại, rất có thể bạn sẽ thấy một lối đi ngay trước mắt mình, Sống đơn giản, yêu thật lòng, quan tâm sâu sắc, nói lời tới phía trước. Đó là câu trả lời cho mọi vấn đề.


Nếu em còn anh bây giờ...

Anh gặp em lần đầu trong một ngày hè đầy gió, rồi nói nhớ em trong một ngày nắng nhẹ thu sang. Anh đã dắt tay em đi qua bao chiều mưa, rồi bao mùa trắng trắng. Và bỏ rơi em khi cái rét đông chỉ mới chớm về…
Ngày anh đi, bầu trời trong em bỗng nhiên chỉ còn nhạt nắng. Tháng ngày trôi lơ đễnh, lòng em cũng buồn tênh… Nắng nhẹ nhàng trên đôi mắt, gió heo may vất vương trên làn tóc rối, mùa đã chuyển thu…

Một mình em ngược chiều phố cũ, đắng lòng cùng gió, tự hỏi lòng mình, nếu em còn anh bây giờ?

Ngày gần anh, dù nắng hay mưa, em vẫn thấy bầu trời này thật đẹp. Cơn mưa bất chợt là cái cớ để em nép sâu vào lòng anh, để được chung ô cùng anh đi suốt con ngõ nhỏ. Cái nắng gắt giữa trời oi là cái cớ để em lau những giọt hôi rơi trên má anh, để núp sau lưng anh mỗi lần đi học.

Nhưng bây giờ, một cơn mưa nhỏ ban chiều cũng đủ để khiến em chạnh lòng mà bật khóc. Ngồi thu mình trong quán nhỏ, áp chặt tay vào ly cà phê đang ngút khói, nhìn từng hạt mưa rơi ngoài khung cửa nhỏ… Mưa ướt lòng, ướt cả mắt em…

Ngày gần anh, mùa đông trôi qua sao đáng yêu đến thế… có ảm đảm, có u buồn như nhưng ngày lạnh em vừa trải qua đâu?

Ngày gần anh, những bài tình ca sao đẹp và hay đến thế… chứ có buồn, có đắng, có xa xót như em từng nghe đâu?

Ngày gần anh, mọi con đường sao gần mà vui đến thế… có lẻ loi, có cô đơn như những con đường em vừa đi qua đâu?

Ngày vắng anh, vạn vật với em nhạt nhòa đi nhiều lắm… Chỉ có nỗi nhớ đong đầy nhiều thêm thôi…
Nếu em còn anh bây giờ…



Em sẽ thôi không còn buồn khi thấy một cặp tình nhân tay trong tay, sẽ thôi run lên khi gió mùa trở lạnh, sẽ thôi ước ao một cái ôm từ đằng sau thật chặt, thôi dặn lòng “một mình có sao đâu?”… Em sẽ thôi xòe tay dưới bóng râm, khẽ tự nắm lấy hai bàn tay âm thầm… Rồi chợt mỉm cười mà lòng đau đắng đót “Anh giờ này đang nắm lấy tay ai?”.

Nếu may mắn bây giờ em vẫn còn có anh…

Những giấc ngủ đêm qua sẽ thôi chập chờn trong mộng mị. Một cái tên, một hình bóng sẽ thôi quẩn quanh trong tâm trí, những lời buồn sẽ thôi làm chua xót trái tim em…

Em ước rằng bây giờ em vẫn còn anh, để nước mắt không còn ru mỗi đêm em nằm ngủ, để trái tim không còn đau từng cơn thắt quặn, để em thôi tự giày vò trong những nỗi nhớ đầy vơi…

Em tìm quên trong ngày nắng bơ vơ

Tìm niềm mong nhớ, tháng ngày chờ…

Những buổi không yêu, không hò hẹn

Em hiểu lòng mình đã gửi trọn nơi anh.

Em gửi nỗi nhớ dài đến ngút tận trời xanh

Dù biết rằng không thể nào có anh ở bên cạnh

Nhưng vẫn gạt thầm hai hàng nước mắt

Hẹn anh ở lối rẽ khác, em tin mình sẽ gặp lại nhau…

Theo MASK

Galilê - Cha đẻ của khoa học cận đại


Galilê là nhà khoa học nổi tiếng thời Cổ đại, ông sinh ra ở thành Pisa Italia. Suốt đời ông theo đuổi chân lý, hiến thân cho khoa học, dám giữ vững nguyên tắc của mình.

Đầu tiên ông đưa ra nguyên lý quán tính, khái niệm lực và gia tốc, là người mở đường cho lực học kinh điển và vật lý học thực nghiệm. Ông là người đầu tiên dùng kính viễn vọng quan sát các thiên thể, chứng minh và phát triển thuyết mặt trời là trung tâm vũ trụ của Côpecnich.
Ông được người đời sau mệnh danh là “Cha đẻ của khoa học cận đại”.
 
Galilê là nhà khoa học nổi tiếng thời Cổ đại, ông sinh ra ở thành Pisa Italia. Suốt đời ông theo đuổi chân lý, hiến thân cho khoa học, dám giữ vững nguyên tắc của mình. 
 
Khi còn đi học Galilê là một học sinh hay đặt ra câu hỏi, đối với những vấn đề hứng thú ông luôn tự tìm cách chứng minh. Có một thầy giáo đã đưa ra một câu hỏi hóc búa cho học sinh: Dùng một sợi dây vòng thành các hình khép kín khác nhau, thị hình nào có diện tích lớn nhất? Để tìm câu trả lời Galilê đã tìm một sợi dây vòng thành các hình như hình vuông, chữ nhật, hình tròn vv… cuối cùng ông phát hiện hình tròn là hình có diện tích lớn nhất trong các hình, ông còn dùng những kiến thức toán học của mình học được để chứng minh quan điểm này.
 
Thầy giáo của ông thấy sự chứng minh của Galilê như vậy hết sức vui mừng, cổ vũ ông học toán học. Gallilê ngày càng có hứng thú với toán học, ông còn thường đọc một số sách của các nhà khoa học nổi tiếng, ông thích đọc sách của nhà triết học Arixtốt người Hy Lạp nhất, đồng thời ông còn thích tìm tòi thảo luận những nội dung trong sách. Ông dần dần phát hiện ra có rât nhiều vấn đề Arixtốt không có tư duy biện chứng chặt chẽ mà chỉ phán đoán thông qua cảm giác và kinh nghiệm.
 
Arixtốt cho rằng hai vật cùng đồng thời rời từ trên cao xuống, vật nặng rơi xuống trước, vật nhẹ rơi xuống sau. Galilê thì ngày càng nghi ngờ điều này, ông nghĩ: “Các cục đã băng rơi từ trên trời xuống , cục to cục nhỏ chẳng phải rơi xuống đất như nhau sao? Arixtốt sai hay ông sai?"


 
Về sau, Galilê trở thành giáo sư dạy toán tại trường Đại học pisa, ông đã đưa ra sự hoài nghi đối với học thuyết của Arixtốt.
 
Các đồng sự của ông biết điều hoài nghi đó của ông đều bàn tán xôn xao, có người nói Arixtốt là nhân vật vĩ đại như vậy, lẽ nào quan điểm của ông lại sai được? Đây chắc là muốn chơi trội. Lại có người nói Giáo hội và Giáo hoàng đều thừa nhận những điều Arixtốt nói là chân lý,Galilê lại dám nghi ngờ cả chân lý. Điên chắc. Nhưng Galilê không để ý những điều mọi người dị nghị, ông nghĩ cách dùng thực nghiệm để chứng minh sự đúng đắn của mình. Ông nhớ lại lúc nhỏ cùng các em trèo lên tháp Pisa chới trò ném đá xuống, mỗi lần ném một nắm đá xuống có hòn to hòn nhỏ, chúng đều cùng rơi xuống đất một lúc. Thế là ông quyết định phải lên tháp pisa để làm thực nghiệm, để cho tất cả mọi người đều nhìn thấy kết quả thực nghiệm.
 
Galilê dán quảng cáo trong thành phố, ông viết: “Trưa mai mời mọi người dến tháp nghiêng pisa xem thực nghiệm về vật rơi”. Tin được truyền đi, đúng trưa ngày hôm sau rất nhiều người đã kéo đến xem thực nghiệm, có người là nhà khoa học, có người chỉ là dân thường trong thành phố, có bạn bè của ông và có cả những người phản đối ông. Trong đám người đến xem vẫn có người cười ông, họ nói rằng có thằng ngốc mới tin rằng một chiếc lông gà và một viên đá cùng rơi xuống đất như nhau. Lúc đó Galilê hết sức tự tin vì rằng ông và các học sinh của ông đã làm thực nghiệm nhiều lần và mỗi lần đều chứng minh đúng.
 
Thực nghiệm bắt đầu, Galilê và học sinh của mình đặt hai quả cầu sắt to nhỏ khác nhau tương đối rõ rệt vào một cái hộp, đáy của hộp có thể mở ra được, chỉ cần kéo đáy hộp ra là hai viên cầu sắt trong hộp đồng thời tự do rơi xuống. Galilê và các học sinh của mình đưa hộp lên đỉnh tháp, mọi người đứng phía dưới đều chăm chú ngẩng đầu nhìn lên. Galilê đích thân kéo đáy hộp ra, mọi người nhìn thấy hai quả cầu sắt một to một nhỏ rơi xuống, tất cả đều nín thở.


 
“Bịch” một tiếng, cả hai viên đồng thời rơi xuống đất mọi người đứng xem cùng reo lên, còn những người phản đối Galilê thì im lặng không nói gì. Thực tế mọi người nhìn thấy đã chứng minh:
 
Mọi vât thể rơi từ trên cao rơi xuống, thời gian rơi xuống không liên quan đến trọng lượng.
 
Điều đáng nói là năm 1969 các nhà du hành vũ trụ đã đặt chân lên mặt trăng, họ đã làm thực nghiệm, thả một chiếc lông vũ và một hòn đá cùng rơi xuống, kết quả chiếc lông và hòn đá cùng rơi xuống mặt trăng một lúc. Điều này đã nói cho biết nếu như không có lực đẩy của không khí, chiếc lông và hòn đá sẽ rơi xuống mặt đất cùng một lúc.
 
Câu chuyện nổi tiếng về thực nghiệm ở tháp nghiêng Pisa vẫn còn lưu truyền trên thế giới đến ngày nay, nó đã trở thành một giai thoại lịch sử khoa học.
 
Chuyện về kính viễn vọng
 
Vào mùa hè một năm nọ, Galilê nhận được thư của một người bạn gửi tới, trong thư có nói rằng: “Có một người Hà Lan chế tạo được một chiếc kính rất đặc biệt, hôm qua khi đi dạo bên bờ sông tôi đã gặp ông ta. Lúc ấy bên kia bờ sông có một cô gái rất đẹp, qua ống kính tôi đã nhìn thấy cô gái ấy, khuôn mặt cô rõ mồn một cứ như cô đang đứng ngay trước mặt tôi vậy. Tôi ngạc nhiên đến reo lên, tôi nghĩ rằng mình có thể sờ tay vào cô gái được, nhưng khi tôi với tay ra thì suýt ngã xuống sông, thì ra cô gái vẫn ở mãi tận bờ sông bên kia! Vì rằng ông ta không còn chiếc kính nào nữa nên không thể mua lại cho anh được.”
 
Galilê đọc đi đọc lại bức thư, mừng nhảy cẫng lên, ông nói: “Tôi cũng phải làm chiếc kính như thế! Tôi muốn nhìn tận mắt khuôn mặt của những người ở phía xa , có lẽ tôi còn muốn nhìn rõ cả khuôn mặt của những vì sao trên trời cao!”
 
Để làm được loại kính đặc biệt này Galilê đã tìm đọc các tài liệu có liên quan, sau đó suy nghĩ tìm tòi. Một mặt ông dùng bút vẽ trên giấy, một mặt dùng máy tính để tính toán. Mất đúng một đêm, cuối cùng ông đã tìm được cách làm ra chiếc kính này. Galilê muốn làm loại kính này, ông cần mua mấy chiếc phôi thấu kính để thử làm thiết bị có thể nhìn ra được, nhưng lục túi không thấy còn đồng nào, ông nói với người làm: “Lấy áo khoác của tôi đi đặt lấy tiền đi!” Người phục vụ gái không nỡ làm như vậy, liền lấy tiền riêng của mình để mua mây miếng phôi thấu kính.
 
Sau khi có vật liệu để làm rồi ông liền bắt tay vào mài kính. Về tính năng của thấu kính thì Galilê quá thuộc nhưng việc mài kính là rất công phu. Ông phải mất mấy ngày mới mài được hai miếng thấu kính, một thấu kính lồi, một thấu kính lõm. Ông lấy hai ống dài một to, một nhỏ để có thể lồng vào nhau được, ông gắn hai chiếc thấu kính lên hai chiếc ống đó, lúc này chỉ còn việc điều chỉnh cự ly của hai thấu kính là có thể đưa những vật từ xa lại gần và phóng đại nó lên. Galilê nâng cái ống kính đơn giản và kỳ lạ ấy lên ngắm cây mọc phía ngoài cửa sổ, ông điều chỉnh hai chiếc ống có gắn kính tức là điều chỉnh cự ly của hai thấu kính, khi điều chỉnh đến vị trí tốt nhất, Galilê bỗng đã nhìn thấy cái cây đứng từ xa nhỏ gần lại ngay trước mắt, có cảm giác như giơ tay ra là có thể sờ thấy được.
 
Galilê đã thành công, đã làm được loại kính có thể nhìn xa này, ông vô cùng sung sướng! Ông quyết tâm tiếp tục cải tiến loại kính này để nó có thể nhìn xa hơn. Thế là ông lại bắt đầu thiết kế, tính toán, vẽ, mài thấu kính … Qua một mùa hè phấn đấu, hệ số phóng đại của thấu kính đã tăng lên từ 3 đến 9 lần. Sau này ông lại làm ra được chiếc kính phóng đại vật thể lên gấp 33 lần, loại kính này được mọi người gọi là “kính viễn vọng”. Bởi vì nó thực sự là kính viến vọng nên cho đến nay người ta vẫn gọi nó với cái tên như vậy.
Sau khi sản xuất thành công kính viễn vọng, tin truyền nhanh đi khắp Châu Âu, đã có nhiều người bỏ tiền mua kính của ông. Vì bộ phận quan trọng nhất của kính vọng là thấu kính, nên Galilê suốt ngày đêm ngồi mài kính, tuy như vậy nhưng kính ông làm ra vẫn không đủ để bán cho người cần.
 
Galilê sản xuất và cải tiến kính viễn vọng đồng thời bắt đầu dùng kính viễn vọng vào ứng dụng vào quan sát bầu trời, nó đặt nền móng cho ông nghiên cứu thiên văn học sau này.
 
Chân lý tỏa sáng
 
Trên trời cao có vô vàn những vì sao, chúng xa xôi và thần bí. Ở thời đại Galilê sống, người ta tin rằng tất cả các vì sao trên bầu trời là đứng yên, bất động mà trung tâm là Trái đất. Đây chính là “Thuyết Trái đất là trung tâm của vũ trụ” mà mọi người công nhận lúc đó. Nhưng Galilê đã dùng kính viễn vọng quan sát thấy các thiên thể vận động. Ông viết trong sách của mình rằng: “Tất cả không phải là tĩnh tại, mặt trời đang quay, trái đất cũng đang quay. Trái đất không chỉ quay quanh mặt rời mà còn tự quay quanh mình nó theo một trục”.
 
Học thuyết của Galilê vừa ra đời đã xúc phạm đến Giáo hội, Giáo hội quy học thuyết của ông vào loại “Thuyết mặt trời là trung tâm vũ trụ”, được coi là học thuyết dị đoan. Giáo hội không muốn nhìn thấy có người đưa ra học thuyết khác với truyền thống, muốn mọi người mãi mãi tin rằng trái đất là trung tâm của vũ trụ. Tòa án tôn giáo của Giáo hội gọi thẩm vẫn Galilê, Galilê nhận được sự cảnh cáo của Giáo hoàng, cấm ông tuyên truyền cho “Thuyết mặt trời là trung tâm của vũ trụ” dưới mọi hình thức.
 
Galilê bị đả kích, nhưng ông vẫn không quên công việc nghiên cứu của mình. Tốn mất thời gian 6 năm để hoàn thành cuốn sách của mình, nội dung bàn về hai quan điểm “Thuyết mặt trời là trung tâm của vũ trụ” và “Thuyết Trái đất là trung tâm của vũ trụ”. Cuốn sách truyền bá tư tưởng mới, viết sinh động, khôi hài, sau khi xuất bản độc giả đã giành nhau mua hết ngay.
 
Những người phản đối Galilê đọc xong liền tiến hành công kích ông, nói rằng xuất bản cuốn sách này là vi phạm lệnh cấm và làm vấn đề trở nên càng ngày càng nghiêm trọng.
 
Như vậy sách vừa ra đời được nửa năm đã bị cấm bán. Giáo hoàng đã tin vào những lời miệt thị Galilê của một số người lòng dạ hẹp hòi, tòa thánh La Mã và vương quốc Tây Ban Nha cùng phối hợp đưa ra lời cảnh cáo, loại cảnh cáo này là một biện pháp vô cùng nghiêm khắc lúc bấy giờ.
 
Hai tháng sau tòa án Rome gửi trát đòi Galilê đến toà án thẩm vẫn. Mặc dù đã 69 tuổi, bệnh nằm liệt giường ông vẫn bị áp giải đến Rome.
 
Lúc đầu, Giáo hội chỉ định để Galilê thừa nhận việc ông tuyên truyền “Thuyết mặt trời là trung tâm của vũ trụ” là sai lầm đồng thời yêu cầu ông viết giấy đảm bảo sau này không tuyên truyền nữa. Nhưng Galilê không nhận tội, cũng không viết giấy bảo đảm, ông nói: “Những điều tôi viết trong sách dều là sự khách quan, tôi không hề phản đối Giáo hoàng. Tôi có tội gì? Lẽ nào tôi lại phải che giấu chân lý, lừa dối mọi người? Lẽ nào tôi sẽ bị trừng phạt vì nói ra sự thật?”
 
Việc thẩm vấn kéo dài 5 tháng, sức khỏe của Galilê đã không chịu nổi, nhưng mỗi lần thẩm vẫn ông không hề tỏ ra hối hận về việc mình làm. Vì sức khỏe quá yếu, sau mỗi lần chịu thẩm vấn ông đều phải trở về bằng cáng. Tòa án Giáo hội thấy sức khỏe của ông thực sự không chịu nổi liền phán quyết: “Tội danh Galilê là đi ngược lại giáo lý tuyên truyền học thuyết dị đoan bị cầm từ chung thân.
 
Sau khi tòa án tuyên phạt, Galilê bị giam gần Rome, mất tự do. Cho dù là như vậy, đêm về Galilê vẫn kiên trì viết cho đến khi mắt bị hỏng ông không còn nhìn thấy ánh sáng nữa. Ông tin tưởng ánh sáng chân lý chắc chắn sẽ chiến thắng mọi thế lực đen tối. Sau đó không lâu Galilê đã trút hơi thở cuối cùng.
 
Hơn 300 năm sau, năm 1979 Tòa thánh La Mã đã công khai sửa cho Galilê. Giáo hoàng chính thức tuyên bố, phán quyết của Tòa thánh La Mã đối với Galilê là sai lầm nghiêm trọng. Lịch sử cuối cùng đã có pháp quyết công bằng đúng đắn đối với nhà khoa học vĩ đại này, tên tuổi của Galilê mãi mãi được loài người kính trọng.


Anh đã dạy em cách yêu thương một người!

Ngày anh đến, em được ôm anh rất lâu, rất lâu để được biết cái lạnh của Hà Nội cũng có lúc ấm áp như thế nào, để biết là có người cũng lạnh như mình để biết đôi tay anh to thế nào
Ngày anh đến…

Có con bé không còn thích lang thang ngang dọc khắp phố phường một mình chỉ muốn ngồi sau xe anh, dựa nhẹ đầu vào vai anh rồi khe khẽ hát vu vơ. Người đưa em đi khắp những ngõ phố Hà Nội, những con đường ấy dường như đã bớt cô đơn và lạnh lẽo hơn từ khi có anh…


Ngày anh đến khi mùa đông vừa chạm ngõ… Hà Nội mùa Đông là ngõ nhỏ phố nhỏ là những quán cóc liêu xiêu ấm nồng không khí lạnh... Hà Nội mùa đông đẹp cô đơn và giá buốt.

Ngày anh đến…

Có con bé đã không còn lạnh lẽo… Được ôm anh rất lâu, rất lâu để được biết cái lạnh của Hà Nội cũng có lúc ấm áp như thế nào, để biết là có người cũng lạnh như mình để biết đôi tay anh to thế nào, đôi vai của anh rộng lớn lắm và để được thấy bầu trời to lớn dịu dàng của em…

Ngày anh đến…

Em đã biết mình được che chở được yêu thương được vòi vĩnh được nũng nịu được là một đứa TRẺ CON theo đúng nghĩa đấy, vì đôi khi trong khi cuộc sống này cứ bắt em phải LỚN phải mạnh mẽ, phải kiên cường phải cứng cỏi để trưởng thành để chống chọi với cuộc sống đầy rẫy sự bon chen cám dỗ và…. phải MỘT MÌNH khi đối mặt với cô đơn.

Ngày anh đến…

Cảm ơn anh vì đã cho em một bờ vai để tựa, để em cảm thấy mình có một chỗ dựa nào đó, có một bàn tay nắm lấy em khi em muốn buông xuôi, có một ánh mắt nói với em rằng: “mạnh mẽ lên cô bé” khi em muốn gục ngã… có một trái tim đang làm tan chảy trái tim đã lâu rồi băng giá của em…



Trước khi anh đến, có một con bé ngang ngạnh, cứng đầu, không từ một trò nghịch ngợm nào của lũ “tóc ngắn, đầu đinh”, có một cô bé ngang tàn “trời không sợ, đất không sợ”, một cô bé dễ khóc dễ tổn thương, một cô bé cứ lặng lẽ giấu nỗi buồn vào sau đôi mắt và tiếng cười đã biết nhớ, biết khóc, biết giận và say nắng anh tự khi nào rồi!

Ngày anh đến, Anh dạy em cách yêu thương trọn vẹn một người!

DBS M05479
Quang Cao