Lịch sử phát triển
Trong chiến tranh Triều Tiên, kiểu máy bay cánh xuôi F-86 Sabre là máy bay tiêm kích của Mỹ đã thách thức và đánh bại MiG-15 của Liên Xô. Đến năm 1965, giới chuyên môn rất ngạc nhiên khi chiếc MiG-17 thời hậu chiến tranh Triều Tiên lại bắn rơi kiểu máy bay hiện đại tốc độ Mach 2 F-105 Thunderchief (Thần sấm) trong phi vụ ném bom tại Việt Nam. Tình báo Không lực Hoa Kỳ sau đó càng bất ngờ [2] khi phát hiện ra Liên Xô đang chế tạo một chiếc máy bay tiêm kích lớn hơn có tên gọi là MiG-25 Foxbat. Lúc bấy giờ Phương Tây chưa biết rằng MiG-25 chỉ được thiết kế như một máy bay tiêm kích đánh chặn tốc độ cao, chứ không phải là loại tiêm kích chiếm ưu thế trên không; và do đó, dành ưu tiên cho tốc độ hơn là độ cơ động. Cánh đuôi và cánh ổn định ngang to của MiG-25 được hiểu như là một kiểu máy bay rất cơ động, và làm dấy lên nỗi lo ngại trong Không lực Hoa Kỳ rằng tính năng của nó sẽ vượt hơn kiểu tương đương của Mỹ. Trong thực tế, cánh đuôi và cánh ổn định to của MiG-25 nhằm giúp cho nó tránh bị mất ổn định quán tính khi bay cao ở tốc độ cao.
F-4 Phantom II của Không quân và Hải quân Hoa Kỳ là chiếc máy bay tiêm kích duy nhất có đủ lực đẩy, tầm bay và độ cơ động để đảm nhận vai trò chính đối phó lại nguy cơ từ máy bay tiêm kích Xô Viết khi tham chiến ở tầm nhìn thấy. Vì chính sách chung cho Phantom không được phép tấn công nếu không nhìn thấy được mục tiêu, nó không thể tấn công mục tiêu tầm xa như thiết kế ban đầu. Tên lửa đối không tầm trung AIM-7 Sparrow và ngay cả AIM-9 Sidewinder tầm ngắn ở một mức độ nào đó đều kém tin cậy và ít hiệu quả ở tầm ngắn, nơi mà pháo là vũ khí có hiệu quả duy nhất.
Ban đầu Phantom không được trang bị pháo vì có chủ định rằng sẽ dùng tên lửa đối không để chống lại máy bay ném bom chậm chạp và ít cơ động của Khối Vac-xa-va, và máy bay tiêm kích ở tầm xa. Khi kinh nghiệm từ Việt Nam cho thấy điều ngược lại, những cố gắng sử dụng pháo gắn ngoài cánh đã cho ra kết quả thất vọng: tăng độ cản, rung động nhiều khiến cho khó nhắm bắn trúng. Sau này một khẩu pháo 20 mm M61 Vulcan được gắn trong thân Phantom.
Rõ ràng cần có một kiểu máy bay tiêm kích mới vượt qua được những giới hạn tầm gần của Phantom trong khi vẫn duy trì được ưu thế trên không tầm xa. Sau khi từ chối chương trình VFX của Hải quân Mỹ (hình thành chiếc F-14 Tomcat) vì không đáp ứng yêu cầu đặt ra, Không lực Mỹ đề ra nhu cầu của riêng họ bằng chương trình FX (Fighter Experimental), tiêu chuẩn kỹ thuật cho một máy bay tiêm kích ưu thế trên không tương đối nhẹ cân. Ba hãng đã đưa ra các đề xuất của họ: Fairchild Republic, North American Rockwell, và McDonnell Douglas. Không lực Mỹ thông báo sự lựa chọn hãng trúng thầu là McDonnell Douglas vào ngày 23 tháng 12-1969. Thiết kế trúng thầu có dạng cánh đuôi kép giống F-14 nhưng với cánh cố định. Nó không nhỏ hơn hay nhẹ hơn đáng kể so với F-4 mà nó sẽ thay thế.
Phiên bản thiết kế ban đầu F-15A một chỗ ngồi và F-15B hai chỗ ngồi được gắn kiểu động cơ mới Pratt & Whitney F100 để đạt được chỉ số lực đẩy / khối lượng lớn hơn 1. Một đề xuất trang bị pháo 25 mm Ford-Philco GAU-7 với đạn không vỏ bị loại bỏ vì những lý do phát triển để trang bị pháo tiêu chuẩn M61 Vulcan. F-15 giữ lại kiểu mang 4 tên lửa đối không Sparrow tương tự như Phantom. Cánh cố định được gắn vào thân phẳng và rộng để có một diện tích nâng hiệu quả. Một số người nghi ngờ khả năng gia tốc của F-15 cùng với tên lửa đối không Sparrow có đủ để chống chọi chiếc MiG-25 Foxbat bay cao hay không ? Khả năng thực sự chỉ được trình diễn trong chiến đấu mà thôi.
Chiếc F-15 được trang bị kiểu radar hướng xuống có thể phân biệt các vật thể chuyển động ở độ cao thấp khỏi địa hình mặt đất. Nó dùng kỹ thuật máy tính với các màn hình hiển thị và điều khiển mới để giảm nhẹ công việc của phi công; và chỉ yêu cầu đội bay một người để giảm trọng lượng. Không giống F-14 hay F-4, F-15 có kính buồng lái một tấm với tầm nhìn thoáng phía trước. Không lực Hoa Kỳ đã giới thiệu chiếc F-15 như là "chiếc máy bay tiêm kích chiếm ưu thế trên không đầu tiên của Không lực kể từ thời F-86 Sabre."[3]
F-15 được sự quan tâm của những khách hàng như Không quân Israel và Không quân Phòng vệ Nhật Bản, và việc phát triển chiếc F-15E Strike Eagle sẽ tạo ra một kiểu máy bay tiêm kích tấn công thay thế cho chiếc F-111. Tuy nhiên, phê phán từ nhóm "Tài phiệt Chiến đấu" cho rằng F-15 quá to để là một chiếc máy bay chiến đấu thực sự, và quá đắt để có thể sản xuất số lượng nhiều đủ thay thế cho F-4 và A-7, đã dẫn đến chương trình LWF (Light Weight Fighter - máy bay tiêm kích hạng nhẹ) để ra đời F-16 Fighting Falcon của Không quân Mỹ và máy bay hạng trung F/A-18 Hornet của Hải quân Mỹ.
Thiết kế
Khả năng thao diễn của F-15 có được nhờ chất tải cánh (tỷ lệ trọng lượng trên diện tích cánh nhỏ) nhỏ và tỷ lệ lực đẩy trên trọng lượng lớn cho phép nó quay vòng hẹp mà không mất tốc độ. F-15 có thể lên tới độ cao 30.000 feet (10.000 m) trong khoảng 60 giây. Lực đẩy từ hai động cơ lớn hơn trọng lượng của máy bay, vì thế cho phép nó tăng tốc trong khi đang bay dốc đứng lên. Các hệ thống vũ khí và điều khiển bay được thiết kế để chỉ cần một người có thể thực hiện tốt nhiệm vụ chiến đấu trên không.
Một hệ thống điện tử đa nhiệm gồm một hệ thống hiển thị mũ bay (HUD), radar tân tiến, hệ thống dẫn đường quán tính (INS), các công cụ bay, liên lạc tần số cực cao (UHF), và những bộ tiếp nhập Hoa tiêu Chiến thuật trên không (TACAN) và Hệ thống Công cụ Hạ cánh (ILS). Nó cũng có một hệ thống chiến tranh điện tử chiến thuật lắp trong, hệ thống "định dạng bạn thù", bộ phản công điện tử và một máy tính số trung tâm.
Hệ thống hiển thị mũ bay cung cấp, thông qua một máy kết hợp, tất cả các thông tin bay quan trọng do các hệ thống điện tử thu thập được. Màn hình hiển thị này luôn thấy được ở mọi điều kiện ánh sáng, cung cấp cho phi công thông tin quan trọng để theo dõi và tiêu diệt máy bay địch mà không cần nhìn xuống các công cụ trong buồng lái.
Hệ thống radar xung Doppler đa tác dụng APG-63/70 của F-15 có thể tìm kiếm các mục tiêu bay với tốc độ cao ở trên và tốc độ thấp ở dưới không nhầm lẫn chúng với các mục tiêu dưới mặt đất. Nó có thể dò tìm và truy theo máy bay cùng các mục tiêu tốc độ thấp nhỏ ở khoảng cách ngoài tầm nhìn (tối đa lên tới 120 hải lý), và ở độ cao tới các ngọn cây. Radar cung cấp thông tin mục tiêu tới máy tính trung tâm để sử dụng vũ khí tối ưu. Khả năng khóa các mục tiêu lên tới 50 hải lý với một tên lửa AIM-120 AMRAAM cho phép chiến đấu với các mục tiêu ngoài tầm nhìn. Khi chiến đấu hỗn loạn ở cự ly gần, radar tự động tìm kiếm máy bay địch, và thông tin này được chiếu lên màn hình hiển thị trên mũ. Hệ thống chiến tranh điện tử của F-15 vừa có chức năng cảnh báo vừa có chức năng phản công chống lại các mối đe dọa được lựa chọn.
F-15 có thể mang theo nhiều loại vũ khí không đối không. Một hệ thống vũ khí tự động cho phép phi công thực hiện công tác chiến đấu trên không an toàn và hiệu quả, sử dụng hệ thống hiển thị trên mũ bay và các hệ thống điện tử cùng hệ thống kiểm soát vũ khí nằm trên thanh điều khiển. Khi phi công thay đổi từ hệ thống vũ khí này sang hệ thống khác, thông tin hướng dẫn cho loại vũ khí đó sẽ tự động hiển thị trên mũ bay.
Eagle có thể được trang bị tổng hợp bốn loại vũ khí không đối không khác nhau: tên lửa AIM-7F/M Sparrow hay AIM-120 AMRAAM các tên lửa không đối không tầm trung hiện đại ở góc thấp dưới thân, tên lửa AIM-9L/M Sidewinder hay tên lửa AIM-120 trên hai mấu cứng dưới cánh, một pháo Gatling 20 mm cạnh gốc cánh.
Các bình nhiên liệu phụ thích ứng (CFT) sức cản thấp đã được phát triển cho những chiếc F-15C và D. Chúng có thể được gắn bên cạnh các cửa hút gió động cơ dưới mỗi cánh và được thiết kế để có cùng các giới hạn tải trọng và tốc độ bay của máy bay. Tuy nhiên, chúng vẫn làm giảm khả năng thao diễn của máy bay khi giới hạn G-force tối đa. Chúng cũng không vứt bỏ được trong khi bay (không giống các thùng nhiên liệu phụ quy ước gắn ngoài). Không quân Mỹ chỉ lắp CFT cho những chiếc F-15E, nhưng những thùng CTF của Mỹ đã được cung cấp cho Israel để sử dụng cho toàn bộ phi đội F-15 của họ. Mỗi bình nhiên liệu phụ có khoảng 114 foot khối (3.200 L) dung tích hữu dụng. Những chiếc bình này giúp máy bay không cần phải tiếp dầu trên không trong những phi vụ tầm xa và những trận đánh có thời gian dài. Tất cả các mấu cứng treo vũ khí ngoài đều sử dụng được khi có dùng thùng dầu phụ. Hơn nữa, các tên lửa Sparrow hay AMRAAM có thể được lắp tại các góc của thùng dầu phụ.
Biến thể F-15E Strike Eagle là một máy bay chiến đấu hai chỗ ngồi, hoàn toàn thích hợp hoạt động trong mọi thời tiết, với cả các nhiệm vụ không đối không và can thiệp trên không. Buồng lái phía sau được cải tiến để lắp thêm bốn màn hình hiển thị đa dụng CRT cho các hệ thống máy bay và quản lý vũ khí. Hệ thống kiểm soát bay số Lear Siegler cho phép tự động giám sát địa hình, được tăng cường thêm bởi một hệ thống dẫn đường quán tính dùng con quay laser.
Để có khả năng thâm nhập tầm thấp ở tốc độ cao nhằm tấn công các mục tiêu chiến thuật vào buổi đêm và trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt, F-15E mang theo một radar APG-70 và thiết bị LANTIRN để thu ảnh nhiệt.
Radar Quét mạng điện tử chủ động (AESA) APG-63(V)2 đã được trang bị thêm cho một số lượng giới hạn máy bay F-15C của Không lực Hoa Kỳ. Sự cải tiến này gồm hầu hết các phần cứng mới từ APG-63(V)1, nhưng việc lắp thêm radar quét mạng điện tử chủ động giúp phi công nắm bắt tình hình nhanh hơn. Radar AESA có chùm tia nhanh đặc biệt, hầu như có khả năng truy dấu và cung cấp thông tin đồng thời. APG-63(V)2 tương thích với các loại vũ khí trang bị hiện tại của F-15C và cho phép phi công sử dụng toàn bộ lợi thế của tên lửa AIM-120 AMRAAM, đồng thời dẫn đường cho nhiều tên lửa tới nhiều mục tiêu ở các góc, độ cao và khoảng cách lớn.
Lịch sử hoạt động
Bên sử dụng loại F-15 lớn nhất là Không lực Hoa Kỳ. Chuyến bay đầu tiên của chiếc F-15A diễn ra tháng 7 năm 1972, và chuyến bay đầu tiên của chiếc F-15B hai chỗ ngồi (tên chính thức TF-15A) diễn ra tháng 7 năm 1973. Chiếc Eagle (F-15B) đầu tiên được chuyển giao tháng 11 năm 1974. Tháng 1 năm 1976, chiếc Eagle được dự định cho một phi đội chiến đấu được chuyển giao. Những chiếc máy bay đầu tiên mang radar APG-63 của hãng Hughes Aircraft (hiện nay là Raytheon) .
Phiên bản một chỗ ngồi F-15C và hai chỗ ngồi F-15D bắt đầu được biên chế vào Không quân năm 1979. Các phiên bản mới này đều có cấu hình cải tiến của Gói Sản xuất Eagle (PEP 2000), gồm thêm 2.000 lb (900 kg) nhiên liệu trong, mấu cứng có sẵn để lắp đặt các bình nhiên liệu ngoài, trọng lượng cất cánh tối đa tăng tới 68.000 lb (30.700 kg).
Chương trình Nâng cấp Nhiều giai đoạn F-15 được đưa ra tháng 2 năm 1983, phiên bản sản xuất đầu tiên F-15C được chế tạo năm 1985. Những cải tiến gồm: nâng cấp máy tính trung tâm; một Bộ Kiểm soát Vũ Khí Lập trình được (Programmable Armament Control Set), cho phép sử dụng các phiên bản tên lửa AIM-7, AIM-9, và AIM-120A hiện đại hơn; một Hệ thống Chiến tranh Điện tử Chiến thuật cho phép cải tiến các thiết bị thu tín hiệu cảnh báo radar ALR-56C và bộ phản công điện tử ALQ-135. 43 chiếc cuối cùng được trang bị radar Hughes APG-70 cải tiến đã được chuyển đổi trở thành loại F-15E. Những chiếc MSIP F-15C ban đầu với APG-63 sau này được nâng cấp lên thành APG-63(V)1, với nhiều nâng cấp đáng kể về độ tin cậy và khả năng bảo dưỡng trong khi vẫn có tính năng hoạt động tương đương với APG-70. Một số lượng hạn chế những chiếc F-15C cũng đã được trang bị radar AESA APG-63(V)2.
Các phiên bản F-15A và B đã được Israel sử dụng trong chiến dịch Thung lũng Bekaa.
Các phiên bản F-15C, D, và E đã được triển khai tại Vịnh Péc-xích năm 1991 hỗ trợ cho Chiến dịch Bão táp Sa mạc, tại đây chúng đã giành được tổng cộng 36 tới 39 chiến công trong không chiến. Những chiếc F-15E chủ yếu hoạt động ban đêm để săn lùng các bệ phóng tên lửa SCUD và các trận địa pháo bằng hệ thống LANTIRN.
Từ đó chúng đã được triển khai để hỗ trợ Chiến dịch Giám sát phía Nam, tuần tra Vùng cấm bay ở phía nam Iraq; Chiến dịch Provide Comfort tại Thổ Nhĩ Kỳ; hỗ trợ cho các chiến dịch của NATO tại Bosnia, và những cuộc triển khai lực lượng viễn chinh của không quân gần đây.
Thành tích
Tới năm 2005, F-15 thuộc mọi lực lượng không quân đã có thành tích tiêu diệt 104 trên 0 trong các trận không chiến (như được xác nhận bởi các bên sử dụng nó,[cần dẫn nguồn] ngoại trừ trường hợp một chiếc F-15J của Nhật Bản bắn rơi một chiếc F-15J khác năm 1995 vì một tên lửa AIM-9 Sidewinder hoạt động không chuẩn xác trong một cuộc huấn luyện không chiến sử dụng đạn thật).[4][5] Tới thời điểm đó, các phiên bản giành ưu thế trên không của F-15 (các phiên bản F-15A/B/C/D) của Hoa Kỳ và Israel chưa từng bị đối thủ nào bắn hạ. Hơn một nửa những chiến công của F-15 thuộc các phi công Không quân Israel. Chiến công đầu tiên của F-15 thuộc phi công xuất sắc người Israel Moshe Melnik năm 1979. [cần dẫn nguồn] Năm 1979–81 trong những cuộc tranh chấp biên giới giữa Israel và Liban, những chiếc F-15A đã bắn hạ 13 chiếc MiG-21 "Fishbeds" và 2 chiếc MiG-25 "Foxbats" của Syria, hai chiếc sau là đối thủ thiết kế của F-15. Trong cuộc Chiến tranh Liban năm 1982, những chiếc F-15 của Israel đã bắn hạ 40 chiếc máy bay phản lực của Syria (23 MiG-21 "Fishbeds" và 17 MiG-23 "Floggers") và một máy bay trực thăng Gazelle SA.342L của Syria.
Các phi công F-15C của Không quân Hoàng gia Ả Rập Saudi đã bắn hạ hai chiếc F-4E Phantom II thuộc Không quân Iran trong cuộc tranh chấp biên giới tháng 6 năm 1984, và bắn hạ hai chiếc Mirage F1 của Iraq trong Chiến tranh Vùng Vịnh.[cần dẫn nguồn]
Theo Không quân Mỹ, những chếc F-15C của họ đã có 34 chiến thắng được xác nhận trước những chiếc máy bay của Iraq trong cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991, chủ yếu bằng tên lửa: 5 chiếc MiG-29 "Fulcrums," 2 chiếc MiG-25 "Foxbats," 8 chiếc MiG-23 "Floggers," 2 chiếc MiG-21 "Fishbeds," 2 chiếc Su-25 "Frogfoots", 4 chiếc Su-22 "Fitters", 1 chiếc Su-7, 6 chiếc Mirage F1, 1 chiếc máy bay vận tải Il-76, 1 chiếc Pilatus PC-9 huấn luyện, và 2 chiếc trực thăng Mi-8. Sau khi đã giành được ưu thế trên không sau ba ngày đầu chiến đấu, nhiều chiến công sau này diễn ra trước những chiếc máy bay được cho là đang bỏ chạy sang Iran, chứ không phải cất cánh để tham chiến với các máy bay Mỹ. Chiếc F-15C một chỗ ngồi đã được dùng để giành ưu thế trên không, còn chiếc F-15E được sử dụng nhiều vào những cuộc tấn công không đối đất. Một chiếc F-15E đã bắn hạ một máy bay trực thăng Mi-8 của Iraq đang sử dụng một quả bom dẫn đường laser. F-15E hai lần bị bắn hạ vì hỏa lực mặt đất trong Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991.[6]
Năm 1994, hai chiếc UH-60 Black Hawk của Quân đội Mỹ đã bị những chiếc F-15C của Không quân bắn hạ tại vùng cấm bay ở Iraq trong một vụ bắn nhầm.[7]
Những chiếc F-15C của Không quân Mỹ cũng đã bắn hạ bốn chiếc MiG-29 của Nam Tư trong Chiến dịch Lực lượng Đồng minh can thiệp vào Kosovo của NATO năm 1999
Diệt vệ tinh
Từ tháng 1 năm 1984 tới tháng 9 năm 1986, một chiếc F-15A đã được dùng làm bệ phóng cho năm tên lửa ASM-135 ASAT. Chiếc F-15A đạt tốc độ Mach 1.22, 3.8 g góc lên 65° và phóng tên lửa ASAT ở độ cao 38.100 feet (11.6 km). Máy tính của F-15A được nâng cấp để điều khiển vọt lên và phóng tên lửa. Chuyến bay thử nghiệm thứ ba có mục tiêu là một vệ tinh viễn thông đã ngừng hoạt động ở quỹ đạo 345 dặm (555 km), và đã tiêu diệt thành công bằng năng lượng động lực vuông góc. Viên phi công, Thiếu tá Wilbert D. "Doug" Pearson thuộc Không lực Hoa Kỳ, đã trở thành phi công duy nhất tiêu diệt một vệ tinh.[9][10]
Tên lửa ASAT được thiết kế để trở thành một vũ khí chống vệ tinh tầm xa, và F-15A là phương tiện thực hiện giai đoạn đầu tiên. Liên Xô có thể xác định một vụ phóng tên lửa của Hoa Kỳ khi mất một vệ tinh do thám, nhưng một chiếc F-15 mang theo một tên lửa ASAT có thể lẫn mất trong hàng trăm những cuộc xuất kích khác của F-15.
Tương lai
Phiên bản F-15C/D trong Không quân Mỹ đang dần được thay thế bằng loại F-22 Raptor. Tuy nhiên chiếc F-15E vẫn sẽ còn hoạt động trong nhiều năm tới bởi vai trò không đối đất riêng biệt cũng như thời gian bay của thân máy bay còn thấp. 18 chiếc F-15C của Không quân Hoa Kỳ đã được trang bị radar Quét Mạng Điện tử Chủ động (AESA) AN/APG-63(V)2 và được dự định hoạt động tiếp trong Không quân Mỹ tới sau năm 2020. Không quân Hoàng gia Ả Rập Saudi đã mua nhiều phi đội F-15S tầm xa, Hàn Quốc đang mua những chiếc F-15K phiên bản cải tiến, và Singapore đang mua biến thể F-15SG.
Đang có cuộc tranh luận tại Hoa Kỳ liên quan tới việc có nên hiện đại hoá F-15 hay cho nghỉ hưu. Điều này một phần vì chi phí F-22 Raptor thay thế cho F-15 với tỷ lệ 1/1 sẽ là là quá lớn (có lẽ chỉ ở tỷ lệ 1/3). Vì thế F-15 có thể được giữ lại với vai trò hỗ trợ để Không quân Mỹ không gặp nhiều bất lợi trong những cuộc xung đột trong tương lai. Những cải tiến như vậy có thể sẽ gồm radar AESA, Hệ thống xử lý tín hiệu trên mũ bay (JHMCS), các cải tiến giảm phản hồi radar, hay thay động cơ điều chỉnh hướng phụt.
Ngày 26 tháng 9 năm 2006, tại cuộc Triển lãm Air Force Association's Air & Space Conference and Technology Exposition tại Washington D.C., Không quân Mỹ đã thông báo kế hoạch nâng cấp 178 chiếc F-15C của họ với radar AESA AN/APG-63(V)3. Ngoài ra, Không quân cũng dự định nâng cấp những chiếc F-15 với JHMCS.[11] Không quân sẽ giữ 178 chiếc F-15C cùng 224 chiếc F-15E cho tới năm 2025
Biến thể
Các mẫu căn bản
F-15A Phiên bản máy bay chiến đấu giành ưu thế trên không, một chỗ ngồi, mọi thời tiết.
F-15B Phiên bản huấn luyện hai chỗ ngồi. Tên định danh chính thức TF-15A.
F-15C Phiển bản máy bay chiến đấu giành ưu thế trên không, một chỗ ngồi, mọi thời tiết cải tiến.
F-15D Phiên bản huấn luyện hai chỗ ngồi.
F-15J Phiên bản máy bay chiến đấu giành ưu thế trên không, một chỗ ngồi, mọi thời tiết cho Lực lượng Phòng không Nhật Bản chế tạo theo giấy phép tại Nhật bởi Mitsubishi.
F-15DJ Phiên bản huấn luyện hai chỗ ngồi cho Lực lượng Phòng không Nhật Bản. Được chế tạo theo giấy phép ở Nhật bởi Mitsubishi.
F-15N Seagle Biến thể đề xuất hoạt động trên tàu sân bay; được xem xét thay thế cho F-14 Tomcat trong Hải quân Mỹ.
F-15E Strike EagleF-15E Strike Eagle Phiên bản tấn công tầm xa và tấn công mặt đất mọi thời tiết, hai chỗ ngồi cho Không quân Mỹ.
F-15B Phiên bản huấn luyện hai chỗ ngồi. Tên định danh chính thức TF-15A.
F-15C Phiển bản máy bay chiến đấu giành ưu thế trên không, một chỗ ngồi, mọi thời tiết cải tiến.
F-15D Phiên bản huấn luyện hai chỗ ngồi.
F-15J Phiên bản máy bay chiến đấu giành ưu thế trên không, một chỗ ngồi, mọi thời tiết cho Lực lượng Phòng không Nhật Bản chế tạo theo giấy phép tại Nhật bởi Mitsubishi.
F-15DJ Phiên bản huấn luyện hai chỗ ngồi cho Lực lượng Phòng không Nhật Bản. Được chế tạo theo giấy phép ở Nhật bởi Mitsubishi.
F-15N Seagle Biến thể đề xuất hoạt động trên tàu sân bay; được xem xét thay thế cho F-14 Tomcat trong Hải quân Mỹ.
F-15E Strike EagleF-15E Strike Eagle Phiên bản tấn công tầm xa và tấn công mặt đất mọi thời tiết, hai chỗ ngồi cho Không quân Mỹ.
F-15F Strike Eagle Phiên bản một chỗ ngồi đề xuất của F-15E.
F-15H Strike Eagle Phiên bản xuất khẩu của F-15E Strike Eagle cho Không quân Hy Lạp.
F-15I Ra'am (Thunder) Phiên bản cải tiến của F-15E Strike Eagle cho Không quân Israel.
F-15K Slam Eagle Phiên bản cải tiến của F-15E Strike Eagle cho Không quân Hàn Quốc.
F-15S Strike Eagle Phiên bản xuất khẩu của F-15E Strike Eagle cho Không quân Hoàng gia Ả Rập Saudi.
F-15SG Strike Eagle Phiên bản cải tiến của F-15E Strike Eagle cho Không quân Cộng hòa Singapore. Biến thể trước kia được đặt tên F-15T.
Nghiên cứu và thử nghiệm
F-15 Streak Eagle Một chiếc F-15A không sơn và dấu hiệu, trình diễn khả năng tăng tốc của máy bay - phá vỡ tám kỷ lục thế giới về tốc độ lên trong khoảng thời gian 16 tháng 1 và 1 tháng 2 năm 1975 [2].
F-15S/MTD Một chiếc TF-15A đã được chuyển đổi làm máy bay thí nghiệm cất hạ cánh đường băng ngắn và kỹ thuật thao diễn.
F-15 ACTIVE Một chiếc F-15S/MTD đã được chuyển đổi thành máy bay nghiên cứu kỹ thuật điều khiển hiện đại.
F-15 IFCS Một chiếc F-15 ACTIVE đã được chuyển đổi thành máy bay nghiên cứu các hệ thống điều khiển bay thông minh.
F-15 MANX Một biến thể không có đuôi của F-15 ACTIVE.
Thông số kỹ thuật (F-15C Eagle)
Thông số chung
Đội bay: 1
Dài: 19,44 m (63.8 ft)
Sải cánh: 13 m (42.8 ft)
Cao: 5,6 m (18.5 ft)
Diện tích cánh: 56,5 m² (608 ft²)
Cánh máy bay: NACA 64A006.6 root, NACA 64A203 tip
Trọng lượng không tải: 12.700 kg (28.000 lb)
Trọng lượng có tải: 20.200 kg (44.500 lb )
Trọng lượng cất cánh tối đa: 30.845 kg (68.000 lb)
Động cơ: 2 × động cơ Pratt & Whitney F100-100,-220 hay -229 turbo cánh quạt có tăng áp, lực đẩy 77,62 kN (17.450 lbf); lực đẩy khi có tăng áp: 111.2 kN (25.000 lbf) đối với kiểu động cơ -220, 129.0 kN (29.000 lbf) đối với kiểu động cơ -229
[sửa] Đặc tính bay
Vận tốc cực đại:
Cao độ thấp: Mach 1.2 (900 mph, 1.450 km/h)
Cao độ cao: Mach 2.5 (1.875 mph, 3.018 km/h)
Tầm bay xa: 5.600 km (3.000 nm, 3.500 mi) với thùng nhiên liệu phụ
Trần bay: 20.000 m (65.000 ft)
Vận tốc lên cao: 254 m/s (50.000 ft/min)
Áp lực cánh: 358 kg/m² (73.1 lb/ft²)
Lực đẩy/khối lượng: 1.12 (-220), 1.30 (-229)
F-15H Strike Eagle Phiên bản xuất khẩu của F-15E Strike Eagle cho Không quân Hy Lạp.
F-15I Ra'am (Thunder) Phiên bản cải tiến của F-15E Strike Eagle cho Không quân Israel.
F-15K Slam Eagle Phiên bản cải tiến của F-15E Strike Eagle cho Không quân Hàn Quốc.
F-15S Strike Eagle Phiên bản xuất khẩu của F-15E Strike Eagle cho Không quân Hoàng gia Ả Rập Saudi.
F-15SG Strike Eagle Phiên bản cải tiến của F-15E Strike Eagle cho Không quân Cộng hòa Singapore. Biến thể trước kia được đặt tên F-15T.
Nghiên cứu và thử nghiệm
F-15 Streak Eagle Một chiếc F-15A không sơn và dấu hiệu, trình diễn khả năng tăng tốc của máy bay - phá vỡ tám kỷ lục thế giới về tốc độ lên trong khoảng thời gian 16 tháng 1 và 1 tháng 2 năm 1975 [2].
F-15S/MTD Một chiếc TF-15A đã được chuyển đổi làm máy bay thí nghiệm cất hạ cánh đường băng ngắn và kỹ thuật thao diễn.
F-15 ACTIVE Một chiếc F-15S/MTD đã được chuyển đổi thành máy bay nghiên cứu kỹ thuật điều khiển hiện đại.
F-15 IFCS Một chiếc F-15 ACTIVE đã được chuyển đổi thành máy bay nghiên cứu các hệ thống điều khiển bay thông minh.
F-15 MANX Một biến thể không có đuôi của F-15 ACTIVE.
Thông số kỹ thuật (F-15C Eagle)
Thông số chung
Đội bay: 1
Dài: 19,44 m (63.8 ft)
Sải cánh: 13 m (42.8 ft)
Cao: 5,6 m (18.5 ft)
Diện tích cánh: 56,5 m² (608 ft²)
Cánh máy bay: NACA 64A006.6 root, NACA 64A203 tip
Trọng lượng không tải: 12.700 kg (28.000 lb)
Trọng lượng có tải: 20.200 kg (44.500 lb )
Trọng lượng cất cánh tối đa: 30.845 kg (68.000 lb)
Động cơ: 2 × động cơ Pratt & Whitney F100-100,-220 hay -229 turbo cánh quạt có tăng áp, lực đẩy 77,62 kN (17.450 lbf); lực đẩy khi có tăng áp: 111.2 kN (25.000 lbf) đối với kiểu động cơ -220, 129.0 kN (29.000 lbf) đối với kiểu động cơ -229
[sửa] Đặc tính bay
Vận tốc cực đại:
Cao độ thấp: Mach 1.2 (900 mph, 1.450 km/h)
Cao độ cao: Mach 2.5 (1.875 mph, 3.018 km/h)
Tầm bay xa: 5.600 km (3.000 nm, 3.500 mi) với thùng nhiên liệu phụ
Trần bay: 20.000 m (65.000 ft)
Vận tốc lên cao: 254 m/s (50.000 ft/min)
Áp lực cánh: 358 kg/m² (73.1 lb/ft²)
Lực đẩy/khối lượng: 1.12 (-220), 1.30 (-229)
Vũ khí
4 đế trên cánh, 4 đế trên thân, 2 đế đầu chót cánh, mang được tối đa 7.300 kg (16.000 lb) bom và vũ khí các loại
Pháo: 1× M61 Vulcan 20 mm (0.787 in) Gatling gắn trong thân, 940 quả đạn
Tên lửa không đối không:
AIM-7F Sparrow
AIM-120 AMRAAM
AIM-9 Sidewinder
Tên lửa không đối không:
AIM-7F Sparrow
AIM-120 AMRAAM
AIM-9 Sidewinder
Thiết bị điện tử
Radar:
Raytheon AN/APG-63 hay AN/APG-70 hoặc
Raytheon AN/APG-63(V)2 Active Electronically Scanned Array (AESA)
Thiết bị phòng thủ:
Bộ phân tích tín hiệu AN/APX-76 IFF
Bộ radar cảnh báo AN/ALQ-128
Radar cảnh báo tiếp nhận AN/ALR-56
Hệ thống phòng thủ bên trong ALQ-135
Bộ phát pháo sáng AN/ALE-45
Radar:
Raytheon AN/APG-63 hay AN/APG-70 hoặc
Raytheon AN/APG-63(V)2 Active Electronically Scanned Array (AESA)
Thiết bị phòng thủ:
Bộ phân tích tín hiệu AN/APX-76 IFF
Bộ radar cảnh báo AN/ALQ-128
Radar cảnh báo tiếp nhận AN/ALR-56
Hệ thống phòng thủ bên trong ALQ-135
Bộ phát pháo sáng AN/ALE-45
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét