Thứ Sáu, 15 tháng 3, 2013

Máy bay không người lái UAV Scat (cá đuối biển)

Cùng với xu hướng phát triển máy bay không người lái tàng hình ở Phương Tây. Liên bang Nga cũng đẩy mạnh phát triển các loại hình máy bay UAV chiến thuật có khả năng mang vũ khí và chiên đấu. Một trong những loại máy bay đó là dự án Scat (cá đuối biển)

Một trong những tâm điểm của sự quan tâm đặc biệt và cũng là sự bất ngờ thú vị các phương tiện hàng không mới trong triển lãm hàng không MAKC -2007 là chiếc máy bay phản lực không người lái tương lai Skat – Tiếng nga có nghĩa là “Cá đuối biển” Skat được nghiên cứu phát triển bởi Tập đoàn sản xuất máy bay tiêm kích nổi tiếng MiG. Sự kiện giới thiệu mẫu đầy đủ Scat trong ngày thứ 3 của triển lãm trước một đội ngũ phóng viên đông đảo trong một nhà chứa máy bay của Tập đoàn sản xuất máy bay MiG trên khuôn viên của sân bay LII (Viên nghiên cứu các phương tiện bay mang tên M.M. Gromov) thuộc khu vực Giucov ngoại ô thành phố Matxcova, trở thành một show tâm điểm của sự ngạc nhiên, lý thú và gây shock. Cho đến thời điểm giới thiệu sản phẩm, tuyệt đối không hề có một thông tin nào về quá trình phát triển máy bay chiến đấu tấn công không người lái Scat của MiG, kế hoạch giới thiệu máy bay không người lái UAV mặc dù đã được nhà sản xuất lên kế hoạch, nhưng không hề có trong bất cứ một chương trình công báo nào trước thềm của triển lãm. Quyết định chính thức cho phép giới thiệu mô hình mẫu của Scat chỉ được phê chuẩn chính thức của Tổng thống Liên bang Nga Putin vào ngày 21 tháng 8. Chính vì vậy, nguyên mẫu mô hình nghiên cứu không được giới thiệu trong khu vực triển lãm, mà ở một trong những nhà chứa máy bay MiG trên sân bay Viện nghiên cứu thử nghiệm phương tiện bay mang tên Grimov, được mời đến khu vực trình bầy và giới thiệu sản phẩm chỉ có một số lượng không lớn các đại diện của công nghệ truyền thông (truyền hình và báo giấy), trong đó có bản thân tác giả bài viết này.

Cần phải nói chính xác rằng, UAV mẫu chiến đấu tàng hình này ở nước Nga chưa bao giờ có. Nghiên cứu phát triển các máy bay không người lái tấn công hạng nặng – khối lượng lớn hơn 1 tấn – động cơ phản lực sử dụng nhiều lần (điều này khác với các phương tiện bay sử dụng một lần như: máy bay mục tiêu, tên lửa hành trình của Liên bang Nga) được bắt đầu vào khoảng cuối những năm 60-x thế kỷ 20 tại trung tâm nghiên cứu thử nghiệm mang tên A.N. Tupolev, thiết kế loại máy bay trinh sát không người lái có tốc độ cận âm VR-2 “Striz-141” hoặc Tu- 141 có tải trọng cất cánh 5,4 tấn, hay máy bay Reis – 143 hoặc Tu – 143 có tải trọng cất cánh 1,4 tấn. Cả hai loại máy bay này đều có trong biên chế của quân đội liên bang Xô viết và được sản xuất hàng loạt. Ngoài ra, sản xuất hàng loạt và có trong biên chế là loại máy bay không người lái La-17R (tải trọng cất cánh khoảng 3 tấn), được phát triển trên cơ sở của máy bay mục tiêu La 17 tại Trung tâm nghiên cứu thiết kế phương tiện bay S.A.Lavochkin.

Cùng với kinh nghiệm các cuộc xung đột vũ trang những năm 80-x và 90-x, sự phát triển của lực lượng phòng không và các trang thiết bị trinh sát điện tử trên máy bay, tốc độ tăng trưởng các chi phí huấn luyện lực lượng phi công đã dẫn đến buộc phải tính toán cho bước đầu của một thế kỷ phát triển tiếp theo là chế tạo thế hệ máy bay tấn công không người lái phản lực hạng nặng, có khả năng tiến hành các hoạt động độc lập hoặc trong đội hình chiến đấu liên kết phối hợp, có khả năng tiêu diệt các mục tiêu vũ khí chính xác của đối phương hoặc các chiến hạm của địch trên biển, đồng thời được lắp đặt trên thân máy bay các hệ thống trang thiết bị điện tử hiện đại, có những tính năng kỹ thuật cao cho phép UAV có thể tác chiến như hoặc hơn hẳn một máy bay chiến đấu hiện đại ngày nay.

Những nghiên cứu tích cực theo tư duy chiến lược chế tạo UAV trên thềm của thế kỷ mới được bắt đầu từ Mỹ, sau đó là các nước khác ở châu Âu. Trong đó Hợp chủng quốc Hoa kỳ đã tuyên bố coi máy bay UAV là thế hệ thứ 6 của máy bay chiến đấu, loại máy bay này sẽ nhanh chóng thay thế các máy bay thế hệ thứ năm – máy bay tiêm kích đa nhiệm như F-22, F35 v.v..cùng với tương lai gần sẽ tham gia cùng chiến đấu và từng bước thay thế trong những nhiệm vụ tác chiến. Các hàng chế tạo máy bay hàng đầu thế giới như Boeing và Northrop Grummanvào những năm 1998 – 2000 bắt đầu tiến hành thiết kế các mẫu máy bay thử nghiệm và trưng bày các UAV phản lực, có tên gọi là X-45 và X-47, vào năm 2002 – 2003, bắt đầu bay đánh giá thử nghiệm. Yêu cầu quan trọng là những tính năng kỹ chiến thuật chủ yếu phải đáp ứng của máy bay không người lái UAVlà rất tương đồng với những tính năng kỹ chiến thuật của các máy bay tiêm kích đa nhiệm hiện đại ngày nay; có khả năng sử dụng nhiều lần từ các căn cứ, sân bay cất hạ cánh là sân bay chiến thuật; khả năng sống còn cao trong điều kiện chiến trường hiện đại, có khả năng tàng hình hoặc có mức phản xạ hiệu dụng đối với radar rất nhỏ; những thiết kế đặc biệt đơn giản, thông minh. Trên thân máy bay phải được lắp đặt các hệ thống tự bảo vệ cao, có khả năng độc lập phát hiện mục tiêu và sử dụng các loại vũ khí có độ chính xác cao, được lắp đặt trong các khoang chứa vũ khí, tiến hành các hoạt động tác chiến độc lập hoặc trong đội hình của một phân đội, có thể liên kết phối hợp và hiệp đồng tác chiến cùng với các máy bay chiến đấu có người lái.



Model 3D máy bay không người lái UAV Scat

Cấu hình chung của Skat

Trong cấu trúc thiết kế cuối cùng, tải trọng cất cánh của các mẫu giới thiệu và thủ nghiệm của UAV Mỹ đạt đến khối lượng 16,6 tấn với máy bay (X-45C) và đến 19 tấn (X-47B), tải trọng này làm cho UAV có kích thước tương đương với máy bay tiêm kích chiến thuật F-16 của Mỹ. Các UAV thử ngiệm X-45 và X-47 được phát triển dựa trên cơ sở kết quả cuộc cạnh tranh của các nhà chế tạo theo chương trình J-UCAS, chương trình hướng tới sự chế tạo một model UAV tiến tiến thống nhất dành cho lực lượng Không quân Mỹ và lực lượng Hải quân Mỹ. Sự thực từ năm ngoái, ý tưởng một máy bay không người lái cho hai lực lượng quân sự ở nước Mỹ phát triển UAV chuyên dùng cho không quân Hải quân theo chương trình UCAS-D đã bị gạt. Không quan tâm lắm đến ý tưởng của một số cái đầu chiến lược thông minh, máy bay không người lái ở Mỹ không được nghiên cứu như một máy bay chiến đấu thay thế cho máy bay có người lái, mà chỉ là tăng cường bổ xung thêm, đặc biệt hiệu quả trong các tình huống chiến trường phức tạp của các xung đột có cường độ cao. Do đó, hoàn toàn có khả năng tin tưởng rằng, chương trình phát triển UAV sẽ được thúc đẩy trong đó có lợi ích của Không quân và Hải quân.

Cùng với quá trình nghiên cứu UAV mạnh mẽ của USA là sự quan tâm đặc biệt và thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình nghiên cứu chế tạo UAV ở Châu Âu. Tại nhiều nước ở châu Âu các mẫu máy bay UAV tiên tiến được chế tạo để nghiên cứu và thử nghiệm; Pháp chế tạo mẫu UAV Petit Duc, 2000). UK ( Raven , 2003). Ý ( Sky X , 2005), Thụy Điển (Filur. 2005). Đức và Tây Ban nha ( Barracuda , 2006). Riêng dự án của Pháp nhanh chóng phát triển thành dự án chung của châu Âu và mang tên là “nEUROn”, tham gia vào dự án có Thụy Điển, Ý và Tây Ban Nha, quyết định sử dụng các kinh nghiệm thiết kế UAV của mình vào mục đích chung, chế tạo một UAV đa dụng, sau đó là Thổ Nhĩ Kỳ và Thụy Sĩ. Người Anh tiếp tục đi con đường của mình, hoàn thiện chương trình Taranis, là sự phát triển lên cấp độ cao hơn của máy bay UAV thử nghiệm Raven. Cũng như nEUROn, Taranis cũng được thiết kế với những thông số kỹ chiến thuật tương đương với dự án phát triển UAV của Mỹ X-45 và X-47, nhưng tải trọng cất cánh theo thiết kế dự kiến khoảng 6-8 tấn. Cách đây không lâu sau tai nạn mẫu máy bay thử nghiệm năm ngoái, Đức kiên quyết dừng chương trình nghiên cứu độc lập máy bay UAV Barracuda, được giới thiệu trong Triển lãm hàng không Châu Âu tháng 5 năm 2006 tại Beclin, người Đức quay lại xem xét khả năng kết hợp cùng với các nước khác cùng phát triển UAV, có nhiều dự đoán sẽ liên kết với nEUROn.

Điều gì đang diễn ra ở đất nước chúng ta? Một trong những ý tưởng chế tạo UAV, sử dụng cho các hoạt động quân sự, tập trung vào tập đoàn Tupolev, Tập đoàn này từ những năm 80-x đã tiến hành những hoạt động nghiên cứu thiết kế thế hệ máy bay UAV mới, được biết đến với mã hiệu 300 hoặc Tu-300 “Korshun” có các tính năng kỹ chiến thuật tương đương như các UAV thế hệ trước Reis hoặc Stric (theo phương pháp cất cánh và hạ cánh) theo kích thước sẽ nằm ở khoảng giữa hai loại, có tải trọng cất cách khoảng từ 3 – 3,5 tấn. Các máy bay không người lái được tính toán sẽ sử dụng trong tổ hợp UAV chiến thuật Stroi-F trong các phương án khác nhau; phương án trinh sát mục tiêu và phương án máy bay tiêm kích đa nhiệm mang vũ khí trang bị. Vũ khí trang bị có thể được treo dưới thân máy bay, khu vực buồng đốt phản lực, hoặc có thể được đặt trong khoang. Nhưng dự án “Korshun” đã bị lãng quên nhanh chóng do những biến động chính trị cho đến gần đây, nhưng theo các kênh truyền thông của nhà máy thông báo, Hãng Tupolev có dự kiến sẽ khởi động lại dự án, nâng cấp các thiết kế kỹ thuật đồng thời sử dụng những thành tựu mới nhất của trang thiết bị điện tử trên máy bay. Nhưng, nếu theo những thông tin nhận được, nếu chương trình nghiên cứu được tiếp tục thì theo truyền thống của máy bay Stris và Reis, các UAV Tupolev nâng cấp cải tiến của sẽ vẫn được sử dụng như các máy bay trinh sát đường không – do theo các tính năng kỹ chiến thuật, hình dáng thiết kế, phương thức cất, hạ cánh (cất cánh bằng ống phóng đạn, hạ cánh bằng dù) Tu-300 hoàn toàn khác xa so với những tiêu chuẩn kỹ chiến thuật của máy bay không người lái tiên tiến trên toàn thế giới.

Gần hơn với UAV tấn công là dự án của Trung tâm thiết kế và thử nghiệm A.S. Yakovlev với tên gọi dự án (Prorub – đột phá). Lần đầu tiên theo ý tưởng của Yakovlev, có bề dầy kinh nghiệm chế tạp các UAV có kích thước nhỏ gọn ( ví dụ: các phương tiện trinh sát Ptrela đã vượt qua được các cuộc thử nghiệm trong điều kiện khắc nghiệp của chiến trường, được sản xuất hàng loạt và biên chế trong lực lượng vũ trang) phát triển UAV tiên tiến có tải trọng cất cách lên đến gần 10 tấn, mẫu đã được giới thiệu cách đây nhiều năm. UAV tấn công Prorub – U nằm trong kế hoạch chế tạo một tập hợp UAV đồng nhất, có thể là UAV trinh sát Prorub – P, UAV Prorub RLD radar trinh sát theo rõi mục tiêu. Để làm giảm giá thành chế tao, các loại máy bay UAV này được sản xuất có sử dụng kinh nghiệm đã thu hoạch được từ model Ia – 130 các hệ thỗng trên thân máy bay, động cơ và và các trang bị khác như động cơ phản lực, hệ thống điều khiển từ xa, các hệ thống tranh thiết bị cho một máy bay, các trang thiết bị đặc chủng khác…Theo những thông tin có được trên hệ thống quảng cáo trên website của Trung tâm thiết kế thử nghiệm A.S. Yakovlev, cấp độ đồng bộ hóa của Prorub và Iak – 130 là 40%. Những thông tin chính xác của sơ đồ hệ thống UAV của Trung tâm Yakovlev được nhà thiết kế chính Yuri Yankevich của Trung tâm mang tên A.S. Yakovlev công bố trong tạp chí khoa học công nghệ số đặc biệt Poliet – “Bay” kỳ niệm100 ngày mất của A.S. Yakovlev tháng 3 năm 2006.

Phương án UAV tấn công, dự án sẽ là sơ đồ máy bay sử dụng công nghệ Stealth, kiểu cánh dơi với thiết kế không có cánh đuôi, vũ khí trang bị được giấu kín trong khoang nhằm giảm thiểu tối đa phản xạ hiệu dụng, động cơ phản lực với hệ thống thu không khí phía trên phần đầu máy bay. Cất cánh theo Yut với đầy đủ vũ khí trang bị khoảng từ 1 đến 3 tấn, tốc độ cực đại lên đến khoảng 1100 km/h, trần bay tối đa là 16 km, thời gian hành trình cho phép đến 6 h. Máy bay được đồng bộ hóa từ 60 – 70% giữa phương án chiến đấu và phương án máy bay trinh sát, máy bay cảnh giới và tìm kiếm có radar. Đồng thời sử dụng các tổ hợp bộ phận khác, sử dụng các cánh kéo dài và các module cánh lái đuôi.

Mùa hè năm 2005. Khi gia nhập tập đoàn Irkut Trung tâm thiết kế thử nghiệm A.S. Yakovlev đề nghị với công ty Alenia Aermakki thuộc tập đoàn Finmeccanica cùng tiến hành các hoạt động nghiên cứu thiết kế máy bay UAV theo chương trình Yak – 130. Hợp đồng thỏa thuận giữa Nga và Ý được ký trong triển lãm hàng không năm 2005. Tháng 6 -2007, tại triển lãm hàng không tại Le Bourget Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Irkut và Tổng giám đốc Trung tâm OKB A.S. Yakovlev Olech Demchenko chính thức thông bá Cả hai bên đã tiến hành các hoạt động nghiên cứu thiết kế thực tế theo định hướng đã nêu: Hai năm trước chúng ta cùng với công ty Finmeccanica và Alennia đã ký thỏa thuận phát trienr UAV trên cơ sở UAV Yak – 130. Cho đến ngày hôm nay chúng ta đã nhận được những văn bản quyết định từ Bộ quốc phòng Liên bang Nga và Bộ quốc phòng Ý. Thời điểm này chúng ta bắt đầu các hoạt động nhằm thực tế hóa dự án được đặt ra. – Thông báo với giới báo chí Oleg Demtrenko..

Phát triển các máy bay không người lái UAV hiện nay ở nước Nga có rất nhiều các công ty chế tạo các thiết bị hàng không. Các công ty có những sản phẩm hiệu quả có thể kể đến: Tập đoàn Irkyt, Trung tâm thiết kế chế tạo Kazan Sokol, hãng Enhics, công ty Novik – Thế kỷ 21. Và rất nhiều các cơ sở sản xuất khác. Nhưng tất cả các UAV được các đơn vị này chế tạo có khối lượng từ vài kg đến vài trăm kg và được dùng chủ yếu cho nhiệm vụ quan sát, trinh sát từ trên không ( chỉ có duy nhất Trung tâm thiết kế và thử ngiệm Sokol đã phát triển tổ hợp UAV trinh sát và tấn công Dan-Baruk, có tải trọng cất cánh là 500 kg. Vào năm 2005, 3 mẫu UAV models thuộc họ Zond có tải trọng cất cánh từ 2 đến 12 tấn, nhằm thực hiện các hoạt động như chụp ảnh quang phổ, điều khiển bay trong không trung và truyền tiếp thông tin, được giới thiệu tại salon hàng không Le Bourget và giới thiệu tại Trung tâm thiết kế và thử nghiệm của Sukhoi. Cũng rất rõ ràng là Sukhoi hiện đang nghiên cứu các UAV quân sự, nhưng những thông tin cụ thể về chương trình này hoàn toàn không được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Tập đoàn chế tạo máy bay MiG nghiên cứu phát triển UAV đã được cộng đồng biết từ hai năm trước, những hoạt động này được bắt đầu khi Tổng giám đốc và tổng công trình sư Alexei Fedorov được bổ nhiệm – (sau đó là Chủ tịch hội đồng quản trị đồng thời là Chủ tịch Tập đoàn chế tạo máy bay Liên bang OAK), đã nhanh nhậy đánh giá được thị trường UAV và chớp thời cơ triển khai trước một số chương trình phát triển UAV trong tập đoàn Irkyt, nơi ông làm chủ tịch Hội đồng quản trị. Trong hai năm đó các đại diện chính thức của MiG chỉ khẳng định rằng MiG đang nghiên cứu phát triển UAV, nhưng không hề thông báo một thông tin nào cụ thể, chỉ đến tháng 8 năm 2007, dự án UAV của MiG đã đạt được những thành tựu nhất định, lúc đó, ban lãnh đạo tập đoàn quyết định, đã đến thời điểm giới thiệu một số thành quả đạt được trước cộng đồng.

Giải pháp chế tạo Scat Tập đoàn MiG đưa ra, khi đã có trong tài sản của mình bề dầy kinh nghiệm với UAV. Từ cuối những năm 40-x, các nhà thiết kế của Trung tâm thiết kế và thử nghiệm đã triển khai những hoạt động nghiên cứu hệ thống các tên lửa chống tầu KS và KSS ( theo thiết kế là các mô hình máy bay MiG – 15 thu nhỏ không người lái), sau đó là các tên lửa hành trình siêu âm K-10 và X-20 nhằm trang bị cho các máy bay ném bom tầm xa mang tên lửa Tu-16 và Tu-95, tham gia tích cực vào chế tạo tên lửa hành trình tốc độ cao X-22, các tên lửa này hiện nay vẫn được trang bị cho máy bay ném bom Tu-22MZ. Ngoài ra, vào những năm 60-x, MiG tiến ành các hoạt động triển khai nghiên cứu chế tạo các UAV tấn công (X-155 DR- Kretret) máy bay không người lái đánh chặn X-155DR Gryrza).v.v.Các hoạt động theo chương trình máy bay không người lái tiếp tục tại OKV (Trung tâm nghiên cứu chế tạo) đến những năm gần đây.

Vậy máy bay UAV tiên tiến của MiG như thế nào? Cùng với những xu hướng thiết kế hiện đại của thế giới các UAV đều sử dụng công nghệ Stealth với hình dáng thiết kế kiểu cánh dơi. Cấu trúc của thân máy bay phần lớn sử dụng vật liệu tổng hợp.

Khung sườn thân máy bay trên bản vẽ thể hiện là một hình tam giác có dạng mũi tên với các góc nhọn phía trước gần 54o, Hình dáng mũi tên được xuôi xuống phía sau cho đến bằng 0 với các đầu cách được cắt góc 90 độ ở phía trước và phía sau cánh máy bay. Nói chung, toàn bộ hình dáng của Skat nhìn từ trên xuống, và từ dưới lên được tuân thủ theo xu hướng thiết kế các đường viền của thân máy bay, các đường nối giữa các tấm vỏ máy bay, các tấm vách khung của khoang thân và của đóng mở khoang đều có các trục song song, điều đó đáp ứng được yêu cầu giảm phản xạ hiệu dụng của thân máy bay. Các bộ phận điều khiển khí động học của máy bay – là các mặt phẳng xoay ngiêng đa năng theo phần sau của cánh, điều khiển các cánh cản này cho phép điều khiển máy bay xoay tròn, lên cao xuống thấp và bay theo quỹ đạo đường bay, đồng thời cũng là bộ phận hãm khí động học. Cánh điều khiển còn được bố trí bổ xung trên thân máy bay ở phần trung tâm phía dưới bụng, có dạng hình mũi tên ngược với góc – 54o.

Động cơ của Scat là động cơ turbo phản lực hai cánh tuốc bin không có bộ phận phóng RD-5000B có lực kéo là 5040 kgf, đây là động cơ cải tiến của động cơ turbo phản lực RD-93 (phương án sử dụng trên MiG 29 một động cơ RD-33 đối với các máy bay xuất khẩu 1 động cơ) đồng thời sử dụng ống phụt phản lực hình hộp nhằm giảm khả năng phản xạ radio. Trong giai đoạn thử nghiệm đầu tiên Skat vẫn được sử dụng loại ống phụt truyền thống đối xứng trục tâm (trong lần trình diễn ngày 23 tháng Tám giới thiệu cả hai phương án – hình hộp và trục đối xứng). Bộ phận thu không khí không điều chỉnh của động cơ được bố trí ở phần mũi của máy bay).

Phía trong của UAV dọc theo máy bay là đường ống dẫn khí vào động cơ phản lực, có bố trí 2 khoang hai bên chứa vũ khí có diện tích 4,4m x0,65mx0,75m, có thể lắp đặt tên lửa lớp Không – Hải (đất) hoặc tên lửa chống radar phòng không, hoặc bom có điều khiển với khối lượng từ 250 – 500kg. Trong thời gian trình diễn Skat đã giới thiệu cùng với tên lửa chống radar X-31P và bom có điều khiển KAB-500KR. Theo thông báo, trọng lượng vũ khí hữu ích trên máy bay khoảng 2000kg.

Bánh chịu lực và càng sát xi máy bay là kiểu loại truyền thống của máy bay thông thường, cho phép cất hạ cánh trên các sân bay thông thường, sát xi của máy bay theo hình tam giác, có cơ cấu thu càng máy bay. Mỗi 1 càng máy bay có một bánh xe. Càng phía trước được co lại về phía sau khi bay lên và thu vào khoang bụng máy bay, các càng còn lại cũng thu càng vào khoang dưới thân cánh của UAV.

Nhiệm vụ chủ yếu của UAV Scat là tiêu diệt các mục tiêu quan trọng trong điều kiện hệ thống phòng không rất mạnh của đối phương. Các mục tiêu cố định thông thường là những mục tiêu đã được trinh sát phát hiện sớm, các mục tiêu thứ nhất là các vũ khí, khí tài phòng không của đối phương, đồng thời là các mục tiêu cơ động trên mặt đất và trên mặt biển, UAV có thể tự tìm kiếm và xác định mục tiêu hoặc liên kết phối hợp hoạt động cùng với các máy bay chiến đấu có người lái.

Những trang thiết bị thân máy bay không được thông báo, nhưng theo những tiến bộ khoa học công nghệ đạt được, ngoài tổ hợp hệ thống điều khiển và hệ thống dẫn đường, UAV được trang bị hệ thống tự động tìm kiếm và xác định mục tiêu, lựa chọn vũ khí hiệu dụng, trang thiết bị trinh sát và trang thiết bị tác chiến điện tử nhằm đảm bảo khả năng sống còn trong chiến đấu.

UAV có tốc độ cực đại tính trên mặt đất là 800 km/h và tốc độ trên không là 0,8M. Trần bay max, theo dự kiến 12000m tầm xa hoạt động là 4000 km. Theo kích thước Scat có thể so sánh với máy bay MiG 29, chiều dài là 10,25m, sải cánh 11,5m, chiều cao là 2,7m. Tại trọng cất cánh của UAV khoảng 10,000kg.

Scat UAV được Tập đoàn MiG phát triển từ 2005 trong giai đoạn đầu tiên của phát minh chế tạo máy bay không người lái. Cùng với hàng loạt các nhà máy hàng đầu trong lĩnh vực chế tạo máy bay và các trung tâm nghiên cứu khoa học hàng không đã tiến hành rất nhiều các thử nghiệm để tìm giải pháp tối ưu cho model hình dáng khí động học và tính năng kỹ chiến thuật của các trang thiết bị tiên tiến sẽ được trang bị cho UAV, đồng thời triển khai chương trình phát triển các công nghệ cần thiết cho chế tạo máy bay.Cấu hình khí động học của UAV đã được tiến hành kiểm tra trên giá thổi khí nén của Viện nghiên cứu kỹ thuật Hàng không rất nhiều lần để xác định tính chính xác và đúng đắn trong việc lựa chọn cấu hình thiết kế vỏ, khung sườn và thân máy bay. Trong những đơn vị đồng tham gia phát triển theo chương trình Scat (Cá đuối điện), logo của các đơn vị được treo trong triển lãm trưng bày mẫu máy bay UAV vào ngày 23 tháng 8 là 2 Trung tâm nghiên cứu của Bộ quốc phòng, theo chức năng có nhiệm vụ đảm bảo phát triển các giải pháp và hoạt động nghiên cứu khoa học quân sự dành cho lực lượng Phòng không, tổ hợp kỹ thuật radar – sóng radio Vega, cách đây không lâu được chính phủ Liên bang xác định là đơn vị đi đầu trong lĩnh vực phát triển máy bay không người lái, Viện nghiên cứu và phát triển công nghệ hàng không quân sự quốc gia, các tổ hợp phát triển vũ khí và các tập đoàn phát triển trang thiết bị trên thân máy bay. Hệ thống động lực của Scat được tập đoàn OAO Klimov ở Sant Peterburg phối hợp với Ngân hàng Tuski “Soyuz”, và trong tình huống được sản xuất hàng loạt động cơ máy bay sẽ được sản xuất tại MMP. VV Chernyshev. Tham gia vào nhóm các tập đoàn và các nhà máy, công ty là Trung tâm thiết kế Russia avia của công ty chế tạo máy bay Irkyr sẽ đáp ứng các yêu cầu về các trang thiết bị trên máy bay. Một thành viên nữa của nhóm các nhà chế tạo máy bay là tổ hợp nhà máy Hius ở Vùng Tvers, tổ hợp nhà máy sản xuất này chưa nổi tiếng trong lĩnh vực chế tạo máy bay, nhưng theo ý kiến của của Vladimir Barkovsky , giám đốc Trung tâm kỹ thuật mang tên A.I. Mikoyan, tổ hợp ày có rất nhiều kinh nghiệm trong nội dung thiết kế và tổ hợp cấu hình của máy bay.

Trong triển lãm hàng không Macs – 2007, các phóng viên được giới thiệu nguyên mẫu chiếc máy bay UAV Scat, chế tạo thử nghiệm của tập đoàn sản xuất máy bay MiG mùa hè năm 2007. Nguyên mẫu được sử dụng để hoàn thiện các thiết kế về cấu hình và sự bố trí lắp đặt các trang thiết bị bên trong, cũng như nhưng tính năng kỹ thuật sơ bộ của phương tiện bay.

Những giai đoạn tiếp theo sẽ là thiết kế và chế tạo thử các mẫu bay có người lái (Scat-PD) và không có người lái (Scat – D) đồng thời tiến hành các chuyến bay thử nghiệm, bao gồm cả thử nghiệm sử dụng vũ khí, để đưa đến khâu hoàn thiện cuối cùng. Vấn đề quan trọng đầu tiên là chế tạo mẫu máy bay Scat có người lái. Vladimir Barkovsky giải thích điều đó do luật pháp của Liên bang Nga quy định rất chặt chẽ, các chế định đó đã giới hạn quá trình bay của Scat. Những yêu cầu đã được pháp điển hóa đó đòi hỏi có được một sự hoàn thiện tối ưu, và quy trình hoàn thiện nó đang diễn ra.

Lãnh đạo của Tâp đoàn MiG hiện chưa đưa ra mốc thời gian thử nghiệm đối với các nguyên mẫu của Scat. Rõ ràng, điều đó sẽ không được thực hiện ngay ngày hôm nay hoặc trong thời gian vài tháng tới, nhưng sự tự tin và những mối quan tâm đang được đặt ra trong Tập đoàn, có thể tin tưởng rằng, chuyến bay đầu tiên của Scat không phải đợi lâu nữa.

Trong trường hợp thành công, và điều đó hoàn toàn không còn là vấn đề nghi ngờ đối với nhưng nhà chế tạo ra sản phẩm, họ hy vọng có được sự trợ giúp từ phía Bộ quốc phòng và có thể tham gia vào chương trình phát triển vũ khí của quốc gia. Cùng với xu hướng phát triển của hàng không quân sự hiện đại, Scats hy vọng có được một thị trường rộng lớn trên trường quốc tế. Không có hạn chế nào khi quá trình phát triển trong tương lai của Scat có được sự tham gia của các đối tác nước ngoài. Ở châu Âu, trong những năm gần đây các dự án lớn đều có sự tham gia của nhiều nước, một ví dụ điển hình là dự án Neiron. Có thể khẳng định rằng, trog tương lai gần, sự phát triển của Scat sẽ mang đến nhiều hứa hẹn.

Tính năng kỹ chiến thuật của Scat

Model Scat (Cá đuối biển)
Sải cánh, m 11.50
Chiều dài, m 10.25
Chiều cao, m 2.70
Khối lượng, kg
Rỗng 1380
Tải trọng cất cánh 10000
Loại động cơ 1 TRDDF RD-500B
Lực đẩy, kgf 1 х 5040
Tốc độ cực đại, km/h 800 (М=0.8)
Tầm xa hoạt động, km 4000
Trần bay, m 12000

Nguồn: tạp chí điện tử Góc trời -http://www.airwar.ru

Lò đốt sinh điện và tương lai của bếp ăn dã chiến

Công ty Nhiệt Siberia nước Nga đã chế tạo thành công một lò đốt nhiên liệu rắn và sản xuất được 4 kW năng lượng nhiệt và cung cấp 50W điện năng.

Nhiều hay ít, mỗi người chúng ta sẽ tự đánh giá, nhưng đối với những người dân sống ở thành phố và các khu đô thị, sử dụng mạng điện quốc gia, lượng điện năng đó quả thực quá ít ỏi. Nhưng đối với những người dân sống trong vùng sâu, vùng xa, phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên và có điều kiện sống rất xa với xã hội văn mình, điều đó quá thức đã quá nhiều. Vơi 50W điện năng, có thể nạp điện cho điện thoại di động, cho máy tính xách tay, sử dụng những bóng đèn tiết kiệm điện. Điều đó đã thực sự là một cuộc sống mới. Với 50W điện, lò đốt Indig đủ cho 4 bóng đèn tiết kiệm điện, đủ điều kiện sinh hoạt và trẻ em có thể học bài.

Trong chiến tranh, bếp lò đóng vai trò quan trọng trong cung cấp đồ ăn nóng cho cán bộ chiến sĩ, đặc biệt trong các hoạt động hành quân dã ngoại và tác chiến phòng ngự. Bếp lò với những cải tiến cụ thể sẽ không những phục vụ hiệu quả cho các nhà hầm, nhà bếp: cung cấp nhiệt lượng sưởi ấm, nấu ăn cho cán bộ chiến sĩ với sự tiêu hao thấp nhất về nhiên liệu rắn, nhưng lại cung cấp một lượng điện năng đủ để phục vụ cho các hoạt động tác chiến tại chỗ - đài thông tin liên lạc, máy tính, đèn ngụy trang cho các hoạt động tham mưu tác chiến mà không cần đến máy nổ dã chiến hoặc các thiết bị phát điện khác. Với cấu trúc đơn giản, các bếp ăn dã chiến có thể cung cấp năng lượng điện cho ban tham mưu cấp tiểu đoàn trong nhà hầm đồng thời sưởi ấm cho các phân đội.

Bếp lò phát điện pin nhiệt điện

Bếp lò cũng phục vụ cho các hoạt động tại vùng sâu, vùng xa, trong các hoạt động dã ngoại hoặc các hoạt động của các trạm y tế tiền phương trong các tình huống thiên tai. Khi nguồn điện và năng lượng khí gas, dầu bị cắt, khu vực bị phong tỏa bởi ngập nước hoặc bị cắt đường giao thông do sạt lở, sập đổ các công trình và sụt lún đường giao thông. Những chiếc lò nhiệt điện đơn giản này sẽ cung cấp năng lượng cho các phương tiện thông tin liên lạc, chiếu sáng và nạp bình ắc quy điện, các y bác sĩ có thể tiến hành các hoạt động cấp cứu trước khi có thể chuyển lên tuyến trên, có điều kiện tốt hơn.

Cấu tạo chung của lò đốt sinh điện.




Lò đốt Indig trên thực tế hoàn toàn không khác một lò đốt củi hoặc đốt than cám thông thường, được dùng để đun nấu hoặc dùng làm lò sưởi, bao gồm đầy đủ các bộ phận như buồng đốt nhiên liệu, ống khói, bộ phận hứng tro than, bàn bếp đun nấu. Ngoài ra, một bên vách bếp được gắn với thiết bị sinh nhiệt điện, trong thiết bị sinh nhiệt điện có các thành phần sinh điện theo hiệu ứng hiệu ứng Peltier-Seebeck




Thiết bị phát điện hiệu ứng nhiệt điện




Hiệu ứng nhiệt điện, hay hiệu ứng Peltier-Seebeck, là sự chuyển nhiệt năng trực tiếp thành điện năng và ngược lại, trên một số kết nối giữa hai vật dẫn điện khác nhau. Kết nối này thường gọi là cặp nhiệt điện. Cụ thể, chênh lệch nhiệt độ giữa hai bên kết nối sinh ra một hiệu điện thế giữa hai bên kết nối và ngược lại. Hiệu ứng này là cơ sở cho ứng dụng trong một số máy lạnh và máy phát điện, không có các bộ phận chuyển động. Nguyên nhân của hiệu ứng này là sự dịch chuyển các điện tích từ vật dẫn điện có tích năng lượng lớn hơn hơn sang vật dẫn điện có năng lượng nhỏ hơn, từ đó sinh ra sự trênh lệch điện thế.


Nếu như với sự tiếp xúc giữa hai vật dẫn điện, vật dẫn điện thứ 1 được nung nóng ở nhiệt độ cao hơn vật dẫn điện thứ 2, và nối hai vật dẫn điện với một mạng điện, trên mạng điện sẽ xuất hiện dòng điện, cường độ dòng điện càng lớn khi có sự trênh lệch nhiệt độ giữa hai vật dẫn điện khác vật chất, vật chất được sử dụng ở pin nhiệt điện là bán dẫn.Bismuth telluride (Bi2Te3) ) khác dấu nhau, phụ tải và hai tấm bản cực tiếp xúc với nhiệt năng và tiếp xúc với phần không khí làm lạnh bên ngoài môi trường.




Để pin nhiệt điện hoạt động được cần bản cực Tr tiếp xúc với nhiệt độ cao, và bản cực Tx tiếp xúc với môi trường làm lạnh bên ngoài. Như vậy, nếu không đóng mạch điện thì giữa bản cực Tr và bản cực Tx sẽ có sự trênh lệch nhiệt độ Tr-Tx. Nguồn điện, sinh ra trong pin nhiệt điện có thể được tính bằng công thức :




Trên hình giới thiệu sơ đồ mạch điện của pin nhiệt điện bao gồm hai lớp chất bán dẫn là p và n



Ở đây: x – hệ số trung bình dẫn nhiệt của hai chất bán dẫn p và n, S và I là diện tích và chiều dài tiếp xúc của bản cực dẫn điện, (Tr-Tx) là độ trênh lệch nhiệt độ giữa hai tấm bản cực.


Sự trênh lệch nhiệt độ tại những điểm tiếp xúc giữa hai vật chất khác nhau là nguyên nhân hình thành lên sự truyền nhiệt năng, từ sự truyền nhiệt năng này các electron chuyển động từ lớp vật chất có nhiệt độ cao hơn sang lớp vật chất có nhiệt độ thấp hơn, do đó trên lớp vật chất có nhiệt độ cáo hơn sẽ thiếu điện tử và các lỗ hổng, còn lớp vật chất lạnh hơn sẽ có thừa điện tử và các lỗ hổng. kết quả là xuất hiện trường điện thế, từ đó xuất hiện điện thế E, hiệu điện thế có thể tính theo công thức sau:

E=(ap-an)(Tг-Tх)

Nếu mạch điện đóng và có điện trở R, trong mạch điện sẽ chạy dòng điện có cường độ là:



Khi đóng mạch điện, bản cực mát sẽ hấp thụ nhiệt lượng, đồng thời bản cực nóng cũng tỏa ra nhiệt lượng. Để hệ thống làm việc hiệu quả hơn, ngay cả bản cực nóng cũng phải được làm mát, tỏa nhiệt dư thừa trong hoạt động của pin nhiệt điện. Chính vì vậy, dù đặt bản cực lên trên bề mặt của lò đốt, các bản cực vẫn tỏa nhiệt. Trên sơ đồ chi tiết của pin nhiệt điện lò đốt, cho phép lắp đặt trên tất cả các mặt tỏa nhiệt của lò đốt, từ đó thu được điện năng. Phụ thuộc vào phương pháp liên kết các thành phần bán dẫn n và p (song song hoặc nối tiếp), có thể nhận được dòng điện với cường độ và hiệu điện thế khác nhau. Có thể thấy rằng, các pin nhiệt điện, được sản xuất theo tiêu chuẩn của nhà máy, cho công suất điện năng là 50W, có thể mua được ở nhiểu nơi, ngay cả trong các cửa hàng của nước Nga.



1-Lò đốt với bộ phận pin nhiệt điện; 2-Đồng hồ nạp điện

3-Bộ biến điện xoay chiều; 4-Bình điện ác quy

Khi sử dụng pin nhiệt điện để sản xuất điện, nhiệt độ bề mặt của lò sưởi 200oC. Từ đó có thể nạp điện cho các bình ắc quy điện để sử dụng. Trong trường hợp nhiệt độ của lò đốt nhỏ hơn 200oC, sẽ xuất hiện hiện tượng phóng điện ngược. Do đó, để pin nhiệt điện hoạt động hiệu quả, cần kiểm soát nhiệt độ và chế độ nạp điện.

Lượng điện năng thu được từ lò đốt.

Lò đốt Indig cho điện năng tương đương với công suất 50W, trong đó có lắp đặt 2 tấm pin nhiệt điện V25-12, sử dụng 15% bề mặt của lò đốt. Trên thực tế, có thể tăng cường diện tích sử dụng bề mặt của lò đốt tùy theo yêu cầu điện năng, do công suất điện thu được phụ thuộc vào số lượng các tấm pin nhiệt điện lắp đặt trên lò đốt. Trên thực tế, cần công suất khoảng 200W hoặc lớn hơn, tương đương với một TV và 2 bóng đèn với một máy tính laptop.

Hiện nay, giá thành của lò đốt sinh điện tương đối cao, với công suất 50W, giá thành từ 300$ đên 740$. Đây là giá thành hoàn toàn không phù hợp với những gia đình vùng sâu, vùng xa.

Trên thực tế, để có được sản phẩm đến tay những người vùng sâu, vùng xa với điều kiện kinh tế thấp cần có;

1- Nghiên cứu dây truyền công nghệ và sản xuất pin nhiệt điện với giá rẻ nhất với điều kiện trong nước.

2- Sản xuất các lò đốt (bếp đun bằng nhiên liệu thể rắn..củi, than tổ ong..)có lắp các pin nhiệt điện cho công suất từ 200 W hoặc lớn hơn. Có cơ chế hỗ trợ giá, hoặc thực hiện theo cơ chế xóa vùng trắng về công nghệ thông tin đồng thời cơ chế bảo vệ rừng….

3- Lò đốt Indig được thiết kế để tính công suất điện đến 50W, chỉ có 15% bề mặt tỏa nhiệt được sử dụng dành cho pin nhiệt điện. Trên thực tế có thể sử dụng từ 50% đến 70% bề mặt tỏa nhiệt của lò đốt để cung cấp nhiệt cho pin nhiệt điện, và công suất dòng điện tỷ lệ thuận với bề mặt tỏa nhiệt của lò đốt.

4- Khi sử dụng lò đốt có pin nhiệt điện để nạp điện ắc quy, mọi công năng lò đốt cũng không hề thay đổi – vẫn sử dụng để đun nấu, thực hiện những công việc của một bếp lò thông thường.




Lò đốt Vera

5 – Pin nhiệt điện; 6 – Bộ ổn áp; 7 – Dây cáp dẫn điện
8 – Ống khói lò đốt

Những ưu điểm của các pin nhiệt điện: Pin nhiệt điện có thời hạn sử dụng lâu dài, có độ tin cậy rất cao, không có khả năng gây hỏng hóc do nguyên nhân ngẫu nhiên do không có gì để pin nhiệt điện có thể gẫy hỏng. Các pin nhiệt điện có thể lưu trữ với thời gian không hạn chế, và để lắp đặt pin nhiệt điện lên thành lò đốt hoàn toàn đơn giản, kể cả đối với các đối tượng ko hề biết về kỹ thuật và là nội trợ. Pin nhiệt điện sẽ tìm được rất nhiều ứng dụng trong đời sống xã hội và xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường đang cạn kiệt. Đồng thời pin nhiệt điện đóng một vai trò quan trọng trong các hoạt động quân sự, hoạt động cứu hộ cứu nạn và hoạt động chống thiên tai và thảm họa.

Đại diện công ty Rubon. Ltd

Súng phóng lựu GP-25 (P1)

Để tăng cường hỏa lực của tiểu đội bộ binh, ngoài hỏa khí đi cùng như súng RPG-7, trung liên RPD, rút kinh nghiệm từ súng phóng lựu M79, quân đội Xô viết được trang bị thêm súng phóng lựu GP-25 kẹp nòng với súng tiểu liên AKM, AK74. Với cỡ nòng 40 mm. Hỏa khí GP-25 đã tăng cường đáng kể sức mạnh của vũ khí bộ binh.


TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG SÚNG PHÓNG LỰU GP-25



Súng phóng lựu GP-25 (Model 3DTech.edu)


Phần 1: Cấu tạo chung súng phóng lựu kẹp nòng GP-25, tháo lắp, bảo quản súng phóng lựu.

Chương 1: Cấu tạo chung.

Tính năng kỹ chiến thuật của súng phóng lựu kẹp nòng GP-25

1. Súng phóng lựu kẹp nòng 40-mm là vũ khí cá nhân, được sử dụng để tiêu diệt sinh lực địch trên chiến trường, trong công sự, sau vật cản địa hình che khuất và trang thiết bị, công trình hạng nhẹ, xe cơ giới hạng nhẹ của địch. (h. 1).

2. Súng phóng lựu GP 25 được lắp đặt trên súng AK cỡ nòng 7,62-mm и 5,45-mm Kalasnhicova (АКМ, АКМS, АК74 и АКS74). Súng phóng lựu được lặp trên súng Ak theo hình, cho phép có thể sử dụng hỏa lực súng phóng lựu đồng thời với sử dụng hỏa lực của súng tiểu liên AK. (h.2 và 3).

3. Súng phóng lựu sử dụng loại đạn VOG-25 nổ phá mảnh, đạn phóng lựu có bộ phận đầu nổ tức thời và có chế độ tự hủy.

Hỏa lực của súng phóng lựu GP-25 có thể thực hiện theo phương pháp bắn thẳng và bắn cầu vồng, tầm bắn xa nhất trên thước ngắm là 400m, tầm bắn cầu vồng gần nhất của thước ngắm là 200m. Tốc độ bắn 4-5 phát/ phút..




H. 1. Súng phóng lựu kẹp nòng 40-mm.

а — Súng phóng lựu; б —Mặt cắt dọc súng phóng lựu; в — Các bộ phận của súng phóng lựu khi để trong túi đựng súng khi di chuyển. 1 — Nòng súng ; 2– Bộ gá kết nối súng với nòng súng tiểu liên AK; 3 —Vòng goăng đệm; 4 —Cần lấy truyền chuyển động khóa; 5 — Lò xo ; 6 — Chốt khóa an toàn súng; 7 — Cò súng với tay kéo vòng cò; 8 —Chốt đẩy cò súng; 9 — Lò xo cò súng; 10 — Lò xo búa súng; 11 —Chốt đẩy búa súng; 12 — Búa súng và kim hỏa; 13 — Chốt định vị khóa nòng; 14 —Lẫy khóa chôt súng phóng lựu; 15 — Khóa đạn phóng lựu với nòng súng.




H. 2. Súng phóng lựu GP-25 gắn với súng tiểu liên AKM.




H. 3. Súng phóng lựu GP-25, gắn với súng AK-74.

Thông số đạn đạo và thông số thiết kế của súng phóng lựu GP-25 ở bảng dưới.



Mã hiệu: 6G15 (6Г15)

Cỡ nòng súng 40 mm

Chiều dài đường nòng có tiện ren 98 mm

Số rãnh xoắn 12

Khối lượng súng không có đệm báng súng 1,5 kg

Chiều dài súng 323 mm

Tầm bắn được đặt trên thước ngắm:

max 400 m

min ( đường đạn cầu vồng) 200 м

tốc độ bắn 4―5 phát./phút

Cơ số đạn 10 viên.

Loại đạn VOG-25 ВОГ-25

Vo đạn 76 m/s

Cỡ nòng 40 m

Chiều dài viên đạn 0,1067 m

Khối lượng đạn 0,255 kg

Khối lượng thuốc nổ 0,048 kg

Khoảng cách hoạt động của đầu nổ tính từ mặt cắt nòng súng 10 đến 40 m

Thời gian tự hủy đạn sau khi bắn 14 s
Độ tản mát khi bắn ở tầm bắn 400 m Vd không lớn hơn 6,6 m, Vb không lớn hơn 3 m

Giới thiệu chung về cấu tạo và hoạt động của các bộ phận súng phóng lựu GP-25

4. Súng phóng lựu GP-25 là súng được gắn dưới nòng súng tiểu liên, là súng kẹp nòng . Súng có ba bộ phận chính: (рис. 4):

— Nòng súng với bộ phận gá lắp thước ngắm và giá lắp súng với nòng súng tiểu liên AK;

— Khóa nòng. ;

— Bộ phận cò súng và tay cầm.




H. 4. Súng phóng lựu kẹp nòng 40-mm được tháo rời từng bộ phận:

1 — Nòng súng với bộ gá lắp súng với nòng súng tiểu liên; 2 — Bộ phận cò súng với tay cầm súng; 3 — Khóa nòng; 4 — Chốt khóa súng; 5 — Chốt khóa định vị; 6 — Lẫy hãm.

Trong bộ phụ tùng của súng bao gồm: Đệm vai báng súng với đai da, trục dẫn hướng với lò xo đẩy về và chốt khóa nắp hộp khóa nòng. Túi đựng súng phóng lựu, bao xe đựng đạn, bộ phận thông nòng súng.

5. Kết nối giữa súng phóng lựu với nòng súng tiểu liên bằng bộ gá đặc biệt, gắn súng bằng giá đệm nén. Để chống độ dơ dọc gá súng được giữ bằng chốt định vị. Khóa súng phóng lựu cố định trên súng AK bằng kẹp thép có lò xo, được gắn trên bộ gá.

Bộ phận cò súng của súng phóng lựu là bộ phận tự lên cò, có nghĩa là khi nhấn cò súng, các bộ phận cơ khí cò súng sẽ tự động lên lẫy cò và búa súng tự động đập vào kim hỏa.

Trong bộ phận kim hỏa, cò súng, thiết kế được lắp bộ phận an toàn, bộ phận an toàn cò súng sẽ khóa cò không cho nổ súng, nếu kết nối giữa nòng súng và hộp khóa nòng chưa kín khít, súng phóng lựu chưa gắn chặt với súng tiểu liên AK hoặc đạn chưa được đẩy sát vào buồng đạn. Ngoài ra, súng phóng lựu được lắp bộ phận khóa an toàn, loại trừ súng cướp cò khi sau khi kết gắn súng phóng lựu với súng tiểu liên.

6. Nạp đạn vào súng phóng lựu từ phía nòng súng. Đạn được đưa vào nòng súng từ phía đáy đạn và ấn sâu vào đến tận đáy của nòng súng và khóa nòng. Khi đó bộ phận móc khóa đạn móc vào rãnh đạn và giữ viên đạn trong nòng súng.

7. Khi bóp cò súng, búa súng đập vào kim hỏa, kim hỏa đập vào hạt lửa và gây cháy thuốc phóng. Giai đoạn đầu tiên thuốc phóng cháy trong vỏ đạn. Giai đoạn tiếp theo dưới áp lực của gas thuốc súng cháy, miếng bịt đáy vỏ đạn bị đốt cháy, khí thuốc tràn vào buồng nòng của khóa nòng. Đồng thới với áp lực khí thuốc, đạn vừa xoay vừa dịch chuyển tịnh tiến về phía trước. Khi đạn bắt đầu chuyển động, các bộ phận của kíp nổ cũng bắt đầu kích hoạt. Kíp nổ kích hoạt hoàn toàn khi đạn đã bay ra khỏi nòng súng từ 10m đến 40m tính từ mặt cắt của nòng súng. Khi đạn gặp vật cản, kíp nổ sẽ hoạt động, kích nổ lượng nổ mồi, mồi nổ sẽ kích nổ lượng thuốc nổ có trong đầu đạn. Trong trường hợp kíp nổ không hoạt động, từ lực đẩy quán tính khi gặp vật cản, bộ phận tự hủy sẽ khởi động và hủy đạn. Thời gian tự hủy là 14s tính từ khi chạm vật cản. Để giảm sức giật của súng khi bắn, báng súng tiểu liên được lắp bộ phận giảm giật đặc biệt.

Chương II. Tháo và lắp súng GP-25

8. Tháo lắp bảo quản vũ khí có thể là tháo lắp thông thường bảo quản và tháo lắp chi tiết. Tháo lắp thông thường được thực hiện khi bảo dưỡng, làm sạch vũ khí trong trường hợp sử dụng ở môi trường bẩn, bụi. Tháo lắp chi tiết được thực hiện khi bảo dưỡng chi tiết có thay thế, sửa chữa, làm sạch vũ khí khi sử dụng trong điều kiện quá bẩn, ô nhiễm nặng như ngâm nước bẩn, sử dụng dưới trời mưa to hoặc trong đầm lầy, rừng nhiệt đới. (h. 4) và (h. 5)..

Tháo lắp bảo quản vũ khí được tiến hành trên bàn công tác hoặc trên tấm phản, ván sạch, vải bạt sạch được trải rộng. Các chi tiết khi tháo lắp được sắp xếp theo một trình tự nhất định, quá trình tháo lắp yêu cầu rất cẩn thận, không được để lẫn lộn các chi tiết, không va đập các chi tiết với nhau hoặc sự dụng công cụ cứng rắn tương đương, không tác động mạnh quá mức cần thiết. Trước khi lắp súng, cần lau chùi, xem xét thật kỹ lưỡng và bôi một lớp mỏng mỡ lên các chi tiết chuyển động cần thiết.

9. Trình tự tháo súng phóng lựu GP-25.




H. 5. Súng phóng lựu 40-mm khi tháo các chi tiết:

1 — Nòng súng và bộ gá súng; 2 — Chốt khóa hãm đạn; 3 — Cần khóa hãm đạn; 4 — Bộ phận định vị chốt hãm; 5 — Thân súng chứa bộ phận cò và tay cầm; 6 — Cò súng và móc kéo; 7 — Chốt đẩy cò súng; 8 — Lò xo cò súng; 9 —Lò xo đẩy búa súng; 10 — Chốt đẩy búa; 11 —Chốt trục búa súng và kim hỏa ; 12 — Búa súng và kim hỏa; 13 — Khóa nòng và bệ khóa nòng; 14 —Chốt bệ khóa nòng; 15 — Lẫy hãm; 16 — Chốt an toàn khóa nòng; 17 —Đối trọng thước ngắm; 18 — Thước ngắm; 19 — Đệm ống thước ngắm; 20 — Đệm bulong hãm; 21 — Lò xo thước ngắm; 22 — Lò xo bulong khóa hãm; 23 — Bộ phận khóa thước ngắm.

1) Tháo thân súng và bộ phận cò sùng ra khỏi nòng súng. (h. 6): Tay trái cầm chắc nòng súng phóng lựu, tay phải cầm thân súng và bộ phận cò súng, ngón tay cái nhấn lên lẫy khóa, xoay nòng sung so với thân súng và bộ phận cò súng một góc 60o về một phía, sau đó tháo nòng súng khỏi bộ phận khóa nòng và bệ khóa nòng.





H. 6. Tháo thân súng và bộ phận cò súng, khóa nòng ra khỏi nòng súng.

2) Tháo lẫy hãm: Cầm thân súng và bộ phận cò súng-khóa nòng vào tay trái, hai ngón tay của tay phải cầm lẫy hãm và kéo ngược lên phía trên. (h. 7).

3) Tháo chốt thân súng và chốt khóa súng: Giữ thân súng bằng tay trái, tay phải tháo chốt định vị từ thân súng - bệ khóa nòng, sau đó tháo chốt hãm, để thuận lợi cho tháo chốt khóa súng, cần đặt cần chốt khóa súng ở vị trí ПР, khi tháo một ngón tay của tay trái đè lên lẫy hãm.

4) Tháo khóa nòng và bệ khóa nòng ra khỏi thân súng: Tay phải cần thân súng, tay trái cầm bệ khóa nòng và tách rời 2 bộ phận..




H. 7 Tháo lẫy hãm.

10. Trình tự lắm lại súng sau khi tháo rời .

1) Lắp khóa nòng và bệ khóa nòng vào với thân súng và bộ phận cò: Tay trái cầm bệ khóa nòng, tay phải cầm thân súng và bộ phận cò súng và lắp vào với nhau sao cho kim hỏa đi vào lỗ trung tâm của khóa nòng, khi vào khớp rồi kiểm tra khớp lỗ chốt và lỗ chốt khóa súng trên thân súng với khóa nòng.

2) Đưa chốt định vị và chốt hãm vào lỗ: tay trái giữ thân súng và bộ phận cò, tay phải đút chốt định vị và chốt hãm vào lỗ, khi đưa chốt hãm vào lỗ chốt, lấy ngón tay của tay trái đè lên lẫy hãm.

3) Đặt lấy hãm: tay trái giữ súng, tay phải cài lẫy hãm vào đầu của chốt định vị và chốt hãm bệ khóa nòng, đẩy hết cỡ sao cho khuyết hãm đi vào đúng rãnh trên chốt và rãnh chữ thập trên chốt hãm.

4) Lắp nòng súng vào thân súng: tay trái cầm nòng súng, tay phải cầm thân súng với khóa nòng và bệ khóa nòng, đẩy khóa nòng vào sâu trong nòng súng, sao cho các mấu định vị của khóa nòng ăn vào các vấu cắt trên nòng súng, sau đó xoay khóa nòng cho đến khi lẫy hãm trên khóa nòng với với rãnh cắt trên nòng súng. .

5) Xoay chốt khóa súng vào vị trí ПР: Quay tay quay của chốt hãm lên vị trí phía phía trên.

11. Trình tự tháo súng chi tiết.

Tháo toàn bộ chi tiết của súng được sử dụng với bộ phụ tùng của súng tiểu liên AK.

1) Tháo súng như tháo để bảo dưỡng.

2) Tháo lẫy khóa hãm súng phóng lựu với súng tiểu liên AK: Tay trái cầm nòng súng cùng với bộ gá súng, tay phải sử dụng tống chốt qua lỗ ở phía bên tay phải bộ gá đẩy chốt của lẫy khóa hãm, sau đó tháo lẫy hãm ra ngoài..

3) Tháo chốt hãm: Giữ nòng súng bằng tay trái, tay phải dùng tô vit quay khóa hãm 90o về bất kỳ hướng nào và lôi chốt hãm ra khỏi lỗ trên nòng súng.

4) Tháo bộ phận cò súng: Đặt thân súng ở tư thé thẳng đứng, tay cầm súng quay xuống dưới, phía bên phải thân súng hướng về phía người tháo, tay phải dùng tô vít qua lỗ cửa sổ tống trục của búa súng ra phía ngoài, từ từ rút tô vít, dùng tay trai lôi búa súng và kim hỏa ra khỏi thân súng ( trong trường hợp vị kẹt, dùng tay phải bóp cò súng, tay trái giữ búa sungs0 sau đó lôi từ thân súng tống chốt và lò xo đẩy, tháo cò súng, lò xo cò súng, chốt đẩy ra khỏi thân súng.




H. 8. Tháo trục lẫy khóa hãm gá súng.

5) Tháo thước ngắm: Đặt nòng súng cùng với thước ngắm lên bàn, một ngón tay đè lên khóa hãm của thước ngắm, tay phải cầm ống đựng phụ tùng đè lên bu lông đệm của đối trọng, quay nó về hướng bất kỳ cho đến khi mấu trên trục của thước ngắm nhô ra trong lỗ của trục thước ngắm. Tháo đệm của đối trọng, tháo đối trọng, đệm hãm, hãm thước ngắm với lò xo, lò xo thước ngắm và tháo thước ngắm.



H. 9. Tháo chốt hãm của bộ phận cơ khí cò súng.






H. 10. Tháo bu lông hãm của thước ngắm.

12. Trình tự lắp súng phóng lựu GP-25.

1) Lắp bộ phận cơ khí cò súng: Đặt lò xo đẩy vào thân súng, lắp cò sùng cùng với cần móc đẩy vào thân súng, đặt chốt đẩy lên cùng với lò xo vào lỗ bên trong thân súng, lắp búa súng và kim hỏa vào thân súng. Để thực hiện nhanh cần dựng súng ở tư thế thẳng đứng, tay cầm súng quay xuống phía dưới, phía trên thân súng hướng về phía người lắp, đặt bộ phận búa súng vào khoang hở của thân súng, dùng tô vít ( có trong bộ phụ tùng súng AK) ấn lên búa súng sao cho lỗ định vị trên búa súng trùng với lỗ trên thân súng, đút chốt định vị sao cho đầu chốt thò sang rãnh cắt phía bên kia thân súng. (h. 11).





H. 11. Đặt chốt định vị của búa súng.

2) Nối bộ phận khóa nòng với thân súng. Điều 10.

3) Đặt chốt hãm vào lỗ của nòng súng và quay bằng (tô vít ) 90o để 2 cánh chốt hãm nằm trên hai vai của lỗ hãm trên nòng súng. .

4) Đặt lẫy hãm: Đặt lẫy hãm vào lỗ của bộ gá súng, đặt tống chốt vào lỗ dành cho chốt trục hãm từ phía bên phải và đầu của tống chốt cậy cho lẫy hãm nhấc lên để định vị. Đưa chốt vào từ phía lỗ bên trái, dùng tống chốt đẩy vào bên trong cho đến khi lọt vào lẫy hãm..

5) Lắp thước ngắm. Đặt thước ngắm và lò xo thước ngắm lên trục của thước ngắm,, đặt bu lông hãm thước ngắm và lò xo lên trục của thước ngắm, đặt đệm của của bu lông hãm lên trục của thước ngắm, sau đó là đối trọng và đệm của đối trọng, dùng ống phụ tùng ấn lên đệm của đối trọng và quay nó về bất kỳ phía nào cho đến khi mặt phẳng đệm của đệm đối trọng ăn vào nấc hãm trên trục của thước ngắm..




H. 12. Đặt trục của lẫy hãm.

6) Lắp trục của nòng súng với thân súng và bộ phận cò. Điều 10.

7) Đặt lẫy hãm vào vị trí ПР.

Chương III. Ý nghĩa, cấu tạo chung của các bộ phận trong súng phóng lựu GP 25, đạn và phụ tùng kèm theo.






Model 3D GP-25 - Tech.edu


13. Nòng súng phóng lựu (h. 13) dùng đển định hướng bay của đạn. Trong nòng súng có 2 phần, phần có rãnh xoắn và phần nòng trơn phía bệ khóa nòng. Phần rãnh xoắn có 12 rãnh, được sử dụng để tạo độ xoay của đạn quanh trục của nó khi bay, giữ được độ ổn định trên quỹ đạo đường đạn. Cỡ nòng súng (khoảng cách giữa phần đáy của rãnh xoắn) là 40 mm.



H. 13. Nòng súng với gá súng. (mặt cắt dọc)

1 — Vòng goăng lò xo hãm nòng súng; 2 — Bộ gá súng; 3 — Lò xo hãm định vị; 4 — Bộ phận khóa hãm định vị; 5 — Chốt hãm; 6 — Lẫy hãm định vị; 7 — Rãnh vấu móc hãm; 8 —vấu khóa nòng súng.

Phần nòng trơn của súng phóng lựu được sử dụng để lắp bệ thóa nòng – khóa nòng, kết thúc ở đuôi nòng súng bằng 3 vấu tiện để lắp bệ khóa nòng, phía trên của nòng súng có rãnh để móc vấu khóa nòng súng với bệ khóa nòng.

Trong nòng súng có hai lỗ khoan, lỗ khoan thứ nhất để lắp chốt hãm, giữ đạn trong nòng súng, lỗ khoan thứ hai với rãnh để đặt cần lẫy hãm đạn, kết nối với bộ phận khóa súng, ngăn súng không hoạt động trong trường hợp chưa lắp chắc chắn súng trên nòng súng tiểu liên AK. Trên nòng súng GP-25 có 2 vết phay lõm cùng với rãnh phay để ép kết nối với gá súng.

14. Gá súng: (h. 14) được sủ dụng để kết nối súng phóng lựu với súng tiểu liên AK và lắp thiết bị ngắm.


H. 14. Gá súng:

а —Gá súng phía bên phải; б — Mặt cắt dọc gá súng; 1 — lò xo chốt hãm đạn ; 2 —rãnh cho cần khóa an toàn; 3 — Đĩa số khoảng cách; 4 —trục thước ngắm; 5 — quả ; 6 —Chốt gá súng AK.

Phía trước và phía sau của bộ gá súng có cắt ổ để gá súng phóng lựu lên súng tiểu liên.

Bên trong của gá súng có chốt giữ súng GP-25 theo trục dọc của súng AK, lò xo bộ phận bù gá, lò xo ép bộ gá vào sát với khoang trích khí của súng tiểu liên AK, phía sau của bộ gá, nén chốt hãm đạn và khóa an toàn với lò xo, bộ phận an toàn khóa cò súng, khi súng chưa được kết nối với súng tiểu liên AK.

Phía dưới của gá súng có 2 mấu sắt nhô ra để gắn với nòng súng phóng lựu.

Phía bên trái của gá được gắn trục của thước ngắm, trên trục lắp thân thước ngắm và đối trọng, và thước ngắm. Trên thước ngắm hình tròn có các con số 1,2,3,4,3,2 các số này chỉ tầm bắn trong khoảng cách 100 m. Giữa các số là các vạch khoảng cách, mỗi khoảng tương ứng với 50 m. Tương ứng với 150, 250 và 350m. Những số liệu hàng đầu sử dụng cho đường ngắm thẳng, các số phía sau là số 4, 3 và 2. Khi thực hiện tầm bắn cầu vồng..

Phía bên phải của gá súng có mã hiệu của súng phóng lựu – 6G15. Trên trục của thước ngắm có vấu cam, tác động lên thân của đầu ngắm. Phía bên trái của gá súng trong một rãnh đặc biệt có lắp lẫy của khóa an toàn, khia lắp súng vào súng tiểu liên, lò xo và khóa an toàn bị đẩy sang phía bên phải, đồng thời mở khóa an toàn cho bộ phận cò súng súng có thể hoạt động được.

15. Thước ngắm (h. 5, - 18) để ngắm và bắn súng phóng lựu. Thước ngắm bao gồm có thân thước ngắm, đầu ngắm, đối trọng, thanh trượt, chốt đóng mở khe ngắm, lò xo của thân đầu ngắm, đối trọng được lắp trên trục của thước ngắm và khóa thước ngắm. Thân thước ngắm được gắn với trục thước ngắm bằng đệm, đệm cho phép đặt thước ngắm ở các vị trí cần thiết cho đường ngắm, đồng thời là khóa hãm của của đối trọng với mũi tên chỉ vị trí của thước ngắm. Trên miếng trượt được gắn vấu khóa định vị khe ngắm, giữ cho trục vít của khe ngắm cố định không lắc ngang khi mở ở vị trí bắn.






H. 15. Khe ngắm:

а — Vị trí khe ngắm khi cơ động; b — vị trí khe ngắm khi chuẩn bị bắn.

Khe ngắm có hai vị trí cơ động và vị trí chiến đấu. Chốt vít của khe ngắm bảo đảm điều chỉnh khe ngắm khi đưa chuyển súng phóng lựu vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu. (h. 15).

Đối trọng được sử dụng để đưa súng phóng lựu vào tư thế bắn đường đạn cầu vồng vào những mục tiêu nằm khuất sau vật che đỡ hoặc che khuất ( sau vách núi, sau nhà cửa hoặc trong ụ súng. Đối trọng được lắp trên trục của thước ngắm nhờ đệm của đối trọng và đệm của khóa hãm. Lò xo thước ngắm đè chặt đệm đối trọng vào mấu khóa hãm, từ đó khóa các bộ phận thước ngắm.. Khóa hãm định vị thước ngắm giữ cho thước ngắm không lệch khỏi đường ngắm trong khi bắn. Lò xo của khóa hãm định vị giữ cho thước ngắm ở vị trí phía trên..

Khi đặt cam của thước ngắm, có trên trục của thước ngắm, sẽ thay đổi khung của đầu ngắm vào vị trí cần thiết chống lệch đạn ( cam được sử dụng để chỉnh đường ngắm)..

16. Khóa nòng (h. 4 và 16) là buồng đạn chịu áp lực cao, trong buồng đạn sẽ sảy ra sự cháy thuốc phóng của đạn. Trên khóa nòng có đường gân tiện nổi định hướng và các mấu, được sử dụng để kết nối khóa nòng, bệ khóa nòng với nòng súng, cuối bệ khóa nòng và khóa nóng có 2 cặp tai ( trên và dưới) với lỗ đút chốt và chốt hãm để kết gắn với thân súng và bộ phận cò. Trong khóa nòng- bệ khóa nòng có lỗ khoan trung tâm để cho kim hỏa di chuyển..




H. 16. Кhóa nòng:

а — ảnh chung; b — mặt cắt dọc và ngang; 1 — Khóa nòng; 2 — Lẫy truyền; 3 — Mấu khóa; 4 —lò xo mấu khóa; 5 — Lỗ cho chốt trục định vị và chốt hãm; 6 – Vòng goăng đơn khớp với nòng súng ; 7 — Vòng goăng đôi khớp với nòng súng; 8 — Chốt đẩy đạn ra khỏi khóa nòng; 9 — Vấu kết nối với nòng súng.

Phía trên của khóa nòng có một trục được lắp lẫy truyền khóa cò súng, khi súng phóng lựu không được lắp lên súng tiểu liên AK, vấu đóng định vị và giữ khóa nòng không cho xoay nòng súng. Lò xo mấu khóa, hoạt động cùng với lẫy truyền và vấu định vị.

Từ phía bên trái của lỗ khoan trên khóa nòng đặt chốt đẩy đạn, mục đích sử dụng là đẩy viên đạn ra khỏi nòng súng, sự chuyển động của chốt đẩy đạn được giới hạn bằng một cái vấu đặc biệt. Trên phần vành đai nhô ra của khóa nòng, kết nối với nòng súng, được đặt 2 vòng găng đệm dạng lò xò mảnh, triệt tiêu khe hở giữa nòng súng và khóa nòng, có vòng goăng một và vòng goăng đôi.

17. Thân súng và bộ phận cò súng (h. 17) gắn kết với khóa nòng và tạo thành một bộ phận chính của súng , cùng với nòng súng và bộ phận thước ngắm, gá súng là hai bộ phận khi đựng trong túi bao súng để cơ động. Trong thân súng có chứa bộ phận cò súng. Tay cầm súng dùng để giữ súng khi bắn, và được gắn vào thân súng. Phía trước của súng có hai lỗ xuyên từ bên này sang bên kia, để kết gắn với khóa nòng bằng chốt định vị và chốt khóa an toàn súng.




H. 17. Thân súng và bộ phận cò súng

а — Mặt cắt ngang thân súng và bộ phận cò súng; b — thân súng và tay cầm; 1 — khóa nòng; 2 — Búa súng; 3 — móc kéo; 4 — vòng cò súng; 5 — thân súng và tay cầm; 6 — chốt đẩy; 7 — lò xo cò súng; 8 — lò xo nén búa súng; 9 — chốt đẩy búa súng; 10 — trục của búa súng; 11 — kim hỏa; 12 — tay cầm; 13 — đệm

Khung của thân súng bao bọc toàn bộ phần trên của súng tiểu liên và bảo vệ súng tiểu liên tránh khỏi những hỏng hóc cơ khí khi bắn phóng lựu. Trong khung thân súng có đệm cao su, được sử dụng để chống những va đập cơ khí mạnh, có thể làm hỏng băng đạn khi bắn từ súng phóng lựu.

18. Bộ phận cò súng: Được sử dụng để khai hỏa kích nổ đạn từ súng phóng lựu, bộ phận cò súng bao gồm búa súng với kim hỏa, cò súng với móc kéo, lò xo cò súng, chốt đẩy, lò xo búa súng, chốt đẩy búa súng. (h. 17, а).

Búa súng với kim hỏa được sử dụng để kích hoạt hạt lửa của đạn. Búa súng được gắn kết với thân súng bằng chốt định vị búa súng và lỗ khoan trên thân súng, trục của búa súng định vị búa nằm đúng ở vị trí khe rãnh trên thân súng. Kim hỏa có thể có thể xoay tương ứng với các vị trí khác nhau của búa súng, do đó đảm bảo cho kim hỏa có thể đi xuyên qua lỗ trung tâm của khóa nòng khi lắp súng. Cò súng đồng thời cũng là bộ phận lên cò kéo căng búa súng. Lò xo cò sùng đưa cò súng trở về vị trí ban đầu sau khi bóp cò, đồng thời tác động lên chốt đẩy lên vấu móc của cò súng, giữ cho vấu móc luôn móc vào bộ phận kéo búa súng.

Phần phía dưới của thân súng trong lỗ khoan đặc biệt có chứa lò xo búa súng và cần đẩy, lò xo búa súng thông qua cần đẩy lên tạo áp lực lên búa súng và kim hỏa. Trên cần đẩy lên dạng pittong có 2 vấu nhô ra, vấu thứ nhất truyền lực của lò xo thông qua búa súng vào kim hỏa, vấu thứ 2 đẩy về búa súng. .

19. Chốt khóa an toàn súng (h. 1 . 6) Khi đặt tay vặn chốt vào vị trí ПР, phía trên thẳng đứng) sẽ khóa cò súng, giữ an toàn cho súng đã nạp đạn không khai hỏa bất ngờ. Trước khi bắn cần đặt cần khóa súng vào vị trí nằm ngang ОГ giải phóng cò súng.

20. Bộ phận lò xo đẩy về cùng lẫy khóa được lắp vào thay thế cho bộ phận lò xo đẩy về của súng tiểu liên AK, nhằm đảm bảo cho nắp hộp khóa nòng của súng tiểu liên AK không bị bị bật ra khi bắn súng phóng lựu GP-25 dưới tác dụng phản lực của đạn phóng lựu. Trước khi lắp súng phóng lựu lên súng tiểu liên AK cần thay thế lò xo đẩy về của súng AK bằng lò xo lẫy khóa trong túi phụ tùng. Lò xo của súng tiểu liên AK được cất cẩn thận trong kho, lò xo cùng lẫy hãm được sử dụng trong suốt quá trình sử dụng súng phóng lựu kẹp nòng.




H. 18. Đệm báng súng giảm giật

21. Đệm báng súng giảm giật (h. 18) được sử dụng để làm giảm sức giật của súng phóng lựu khi sử dụng súng, đồng thời chống làm hỏng báng súng tiểu liên AK khi tỳ báng súng xuống nền cứng. Đối với súng tiểu liên AKM và AK 74 bãng gỗ, báng súng được lắp vào sâu tận cùng của đệm báng súng giảm giật, còn dây đai thì được luồn qua móc dây đeo súng và thít chặt. Đối với súng tiểu lên báng gập, đệm báng súng giảm giật cũng được lắp vào báng súng đến tận cùng, dây đai được buộc quanh chỗ tỳ phai và thít chặt, đối với AKS 74 cũng cài chặt vào báng súng..

Cấu tạo của đạn súng phóng lựu VOG-25.

22. Đạn phóng lựu VOG-25 theo tính chất kỹ chiến thuật là loại đạn nổ phá mảnh, đạn bao gồm có 3 phần: phần đầu nổ, phần thuốc nổ và phần liều phóng. Trên lưu đạn có mã số ký hiệu. (h. 19).




H. 19. 40-mm đạn phóng lựu VOG 25 выстрел ВОГ-25:

а — Hình dáng chung và mã hiệu; б — Mặt cắt của đạn; 1 — Bộ phận kích nổ; 2 — Chụp vỏ hình bán cầu; 3 — Miếng đệm; 4 — Lưới bìa cattong; 5 —Thân đạn phóng lựu; 6 — Khối thuốc nổ; 7 —Đáy của đạn phóng lựu; 8 — Thuốc phóng đạn.

Đạn phóng lựu bao gồm có vỏ đạn, đáy đạn, thuốc phóng, lưới bìa cat tông và đệm. (h. 19, б).

Thân phóng lựu có hình trụ tròn, được chế tạo từ thép và được sử dụng để lắp đặt tất cả các bộ phận của đạn phóng lựu, cho phép đạn có thể vừa xoay, vừa tịnh tiến trong nòng súng và bay trong không gian, khi nổ phá ra thành các mảnh vụn có sức sát thương lớn. Hai đầu của vỏ đạn có tiện ren để lắp đầu nổ và đuôi đạn. Cũng có phương án đuôi đạn được nén vào thân vỏ đạn để giảm chi phí.

Đuôi đạn được sử dụng để lắp liều phóng và khóa đạn phóng lựu trong buồng nòng của súng phóng lựu sau khi nạp đạn.

Thuốc nổ khối có hình trụ, khi nổ sẽ phá thân vỏ đạn thành các mảnh vỡ sát thương văng ra mọi phía với tốc độ lớn..




H. 20. Liều phóng đạn phóng lựu

1 — Hạt lửa liều phóng; 2 — Vỏ liều phóng; 3 —Vòng kim loại; 4 — Nắp của liều phóng; 5 — thuốc phóng.

Khối nổ được nén vào vào trong thân của đạn phóng lựu bằng những tấm đệm kim loại.

Lưới được làm từ bìa cat tông, lưới bìa cat tông được dùng để phá vỏ đạn phóng lựu ra làm nhiều mảnh sát thương vụn.

Ốp trượt được đặt trên vỏ của đạn phóng lựu để làm giảm ma sát của đạn khi bay trong không gian.

Liều phóng đạn được sử dụng để phóng đạn ra khỏi nòng súng và viên đạn có vận tốc ban đầu. Liều phóng đạn gồm có vỏ liều phóng, phía trong có thuốc phóng và hạt lửa. Thuốc phóng được bảo vệ bằng vòng đệm và nắp được làm bằng nhôm.

23. Đầu nổ VMG-K (ВМГ-К) (h. 21) được sử dụng để kích nổ thuốc nổ trong đạn phóng lựu. Đầu nổ được lắp trên đầu đạn, chạm nổ tức thì và theo động năng hoạt động, đầu nổ có khóa an toàn bán tự động, kích hoạt bộ phận gây nổ sau khi đạn được bắn ra từ nòng súng và có bộ phận tự hủy. Đạn hoàn toàn an toàn khi sử dụng, vận chuyển và an toàn khi bắn ra từ 10 – 40 m, an toàn ngay cả khi rơi từ độ cao 3 m lên mọi nền cứng. Đầu nổ bao gồm bộ phận kích hoạt khi va chạm, bộ phận phát lửa, bộ phận khóa an toàn kích hoạt động năng, bộ phận tự hủy..






H. 21. Đầu nổ VMG-K :

1 — Nắp đậy ; 2 —Lớp đệm; 3, 19, 21, 22, 26, 27, 29, 36 — Vỏ chụp ; 4 — tấm kim loại mòng ; 5, 39 — mũi nhọn kim hỏa; 6, 25, 31, 35, 38 — Lò xo ; 7 — Giá đỡ ; 8 — Ốc vặn; 9, 15, 32 — Kíp nổ; 10 — Van cửa lậ; 11, 17 — Ống đệm lót; 12 — Thân đầu nổ; 13 — Thành phần thuốc súng; 14 — Miếng đệm ló; 16 — Bu lông; 18 — Thành phần thuốc súng; 20 — Lò xo;23 — Đệ; 24 — Chốt chặn; 28 — Vít; 30 — Lò xo vòng; 33 —Thuốc cháy chậm; 34 —Chốt an toàn; 37 — Kíp nổ; 40 — Thuốc cháy.

Bộ phận kích nổ cơ khí được sử dụng để truyền lực va chạm cơ khí khi chạm vật cản, đảm bảo kích hoạt hoạt động của bộ phận kích nổ. Bộ phận này gồm có nắp đậy 1, Vít 28, Vỏ chụp 3, 2 tấm đệm kim loại 4, đè lên kim hỏa 5, Lò xo nén 6, vỏ chụp 27, được lắp trong giá lắp7.

Bộ phận phát hỏa. đảm bảo kích hoạt bộ phận khóa an toàn khởi động tầm xa, bao gồm kíp nổ 37, Lò xo 38, kim hỏa 39, được lắp trong ống kíp nổ 11.

Bộ phận khóa chốt an toàn, đảm bảo an toàn của đầu nổ khi tiếp xúc, bao gồm có ống lót 17 được nhồi nén thuốc súng 18, nắp đậy 19, lò xo 20, nắp đậy 2 và 22, miếng đệm 23, chốt 24, lỗ van đóng mở 10 với lò xo 25 ngăn chặn chuyển động của van chớp lật về bên sườn. Trong van chớp lật có kíp nổ dạng kim hỏa 9.

Khóa an toàn trung tâm, giữ cho van chớp lật không di chuyển về bên sườn, bao gồm có chốt định vị 34, lò xo 35 và nắp đậy 36 được lắp trong giá đệm 11..

Bộ phận cơ khí tự hủy: được sử dụng để hủy đạn khi kíp nổ cơ khí khi va chạm vật cản không nổ, bao gồm giá đệm 11 được nhồi thuốc súng theo đường vòng cung 33 và kíp nổ 32, được gắn trong giá đệm

Bộ phận kích nổ ất cả được lắp trong vỏ đầu nổ 12 với miếng đệm lót 14 và được giữ chặt bằng bu lông 8 trên nắp đậy 26 với vòng đệm 2. Đuôi của đầu nổ được lắp kíp nổ 15, vặn chặt vào đầu nổ bằng ốc vit 16.

Đóng gói đạn và mã ký hiệu đạn

24. Đóng gói và chuyên chở đạn phóng lựu VOG-25 trong thùng đạn bằng gỗ. Trong thùng gỗ chứa 3 thùng đạn bằng kim loại đựng đạn, mỗi hộp chứa 28 viên đạn phóng lựu, mỗi quả đạn phóng lựu được đặt trong hộp giấy theo chiều thẳng đứng xắp xếp lần lượt. Độ kín khít và chống va chạm được bảo đảm bằng các hộp giấy. Tổng số đạn có trong hộp gỗ là 84 viên đạn.

Một trong ba hộp sắt có giây đai để tiện lôi hộp đạn ra khỏi thùng gỗ, trong mỗi hộp sắt có miếng điệm an toàn bảo vệ đạn, khi bắn mở hộp bằng lưỡi dao, lưỡi dao mở hộp được quấn trong giấy bảo quản, đặt trong thùng gỗ. Thùng gỗ có nắp đậy đóng mở, được khóa bằng hai khóa, có đóng tay xách để tiện cho khiêng vác cơ động.






H. 22. Hòm và thùng đựng đạn VOG-25 (ВОГ-25)

а — Hộp kim loại đựng đạn; б — Hộp gỗ (Nhìn ngang và nhìn từ trên xuống nắp thùng)

25. Trên vỏ đạn có những dấu hiệu sau: Mã hiệu của đạn phóng lưu 7P17 (7П17), phía dưới có 3 mã số cách nhau bằng dấu gạch ngang, số thứ nhất là mã số nhà máy, số thứ 2 là mã số loạt sản xuất, số thứ 3 là năm sản xuất đạn.

Đầu nổ VMG-K có trên nắp mã hiệu: bao gồm mã hiệu đầu nổ - mã số nhà sản xuất, loạt sản xuất và năm sản xuất. ВМГ-К.

Trên nắp hộp kim loại có: mã hiệu súng phóng lựu (h. 22): (6Г15), mã hiệu đạn phóng lựu, 7P17(7П17), số sản xuất của nhà máy, loạt sản xuất của đạn và năm sản xuất, số lượng đạn.

Bên cạnh phía trước của thùng gỗ, phía tay trái có ghi: mã hiệu của đạn phóng lựu, mã số của nhà máy, loạt sản xuất, năm sản xuất, số lượng đạn. Khối lượng thùng đạn (h. 22)Phía bên phải ghi loại súng sử dụng :

Phụ tùng của súng.

27. Để lau chùi bảo dướng súng, làm sạch và bôi dầu mỡ cho súng sử dụng hộp phụ tùng của súng tiểu liên AK và chổi lau chùi nòng súng. Chổi lau chùi nòng súng có thể được vặn vào thông nòng của súng tiểu liên AKM hoặc AK 74. Đối với mỗi cơ số biên chế 12 khẩu súng GP-25 được biên chế hộp hộp phụ tùng ZIP-G (ЗИП-Г) (h. 23.).




H. 23. Chổi lông lắp trên thông nòng súng AK.

Đối với mỗi xạ thủ GP-25 có hai bao: bao đựng súng GP-25 và bao đựng đạn phóng lựu, bao đựng đạn phóng lựu đựng 10 viên đạn, có những túi nhỏ riêng biệt để đựng đạn, có nắp đậy và khuy cài quai đeo quanh cổ và đệm sau gáy để thuận lợi cho mang đạn khi cơ động. Bao đựng súng được đeo bên cạnh sườ, sua sau của bao lưỡi lê súng tiểu liên AK. (h. 24, а) (h. 24, б).




H. 24. Túi đựng súng phóng lựu và đạn phóng lựu.

Giới thiệu về Luật Biển Việt Nam

Việt Nam là một quốc gia ven biển, có bờ biển dài hơn 3.200 km, kinh tế biển và các ngành liên quan đến biển đóng góp lớn vào nền kinh tế đất nước.Năm 1994, nước ta đã phê chuẩn và chính thức trở thành thành viên của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.

Ðể vận dụng hiệu quả, nhất quán những nguyên tắc, quy định trong Công ước Luật Biển năm 1982, chúng ta cần xây dựng một bộ luật tổng quát về biển vì trước đây ta chỉ có một số văn bản đề cập đến một số khía cạnh cụ thể có liên quan. Trên thực tế, các nước ven biển đều ban hành các luật về biển, luật về lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, v.v...

Mục đích của việc thông qua Luật Biển Việt Nam là để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý của nước ta, phục vụ cho việc sử dụng, quản lý, bảo vệ các vùng biển, đảo và phát triển kinh tế biển của Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế và tăng cường hợp tác với các nước, vì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Việc xây dựng và ban hành Luật Biển Việt Nam là nhu cầu tất yếu nhằm phục vụ công cuộc phát triển kinh tế của Việt Nam và phù hợp luật pháp quốc tế, do đó có ý nghĩa quan trọng cả về đối nội và đối ngoại.

Ngày 23-6-1994, Quốc hội thông qua Nghị quyết về việc phê chuẩn Công ước Luật Biển năm 1982, trong đó nêu rõ "Quốc hội giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ nghiên cứu để có những sửa đổi, bổ sung cần thiết đối với các quy định liên quan của pháp luật quốc gia cho phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, bảo đảm lợi ích của Việt Nam". Thực hiện nghị quyết nêu trên của Quốc hội và để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, ngay từ năm 1998, việc xây dựng Luật Biển Việt Nam đã được đưa vào Chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội khóa X. Thực hiện Chương trình đó, các bộ, ngành hữu quan của Chính phủ đã phối hợp các cơ quan của Quốc hội xây dựng dự thảo Luật Biển Việt Nam. Dự thảo Luật Biển Việt Nam được xây dựng trên cơ sở các quy định của Công ước Luật Biển 1982, có tham khảo các thông lệ quốc tế, trong đó có thực tiễn của các nước và các yêu cầu về phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng của nước ta. Trải qua ba nhiệm kỳ Quốc hội các khóa X, XI, XII với nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung, đến nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, dự thảo Luật Biển Việt Nam đã tương đối hoàn thiện và đủ điều kiện để xem xét thông qua.

Dự thảo Luật Biển Việt Nam đã được Chính phủ trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XIII (tháng 12-2011), tại kỳ họp này, Quốc hội đã thảo luận và cho ý kiến đối với các nội dung quan trọng của dự thảo luật. Trên cơ sở ý kiến đóng góp của các đại biểu Quốc hội, các cơ quan chức năng của Quốc hội và Chính phủ đã phối hợp hoàn thiện Luật Biển để Quốc hội tiếp tục xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIII. Tại phiên họp ngày 21-6-2012, Quốc hội đã thông qua Luật Biển Việt Nam với số phiếu tán thành gần như tuyệt đối (99,8%).

Luật Biển Việt Nam bao gồm bảy chương và 55 điều:

Chương I: Những quy định chung

Gồm có 7 điều quy định về phạm vi điều chỉnh, việc áp dụng pháp luật, giải thích từ ngữ, nguyên tắc quản lý và bảo vệ biển, chính sách quản lý và bảo vệ biển, hợp tác quốc tế về biển, quản lý nhà nước về biển.

a. Ðiều 1 của Luật Biển Việt Nam nêu rõ phạm vi điều chỉnh của luật là đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt động trong vùng biển Việt Nam; phát triển kinh tế biển, quản lý và bảo vệ biển, đảo. Việc khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong luật là sự tiếp nối lập trường nhất quán của Việt Nam trong vấn đề này, đã được nêu rõ trong Nghị quyết năm 1994 của Quốc hội Việt Nam phê chuẩn Công ước Luật Biển năm 1982 và Luật Biên giới quốc gia năm 2003.

b. Về nguyên tắc và chính sách quản lý, bảo vệ biển, Luật Biển Việt Nam nêu rõ quản lý và bảo vệ biển được thực hiện thống nhất theo quy định của pháp luật Việt Nam, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và các điều ước quốc tế khác mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

c. Luật Biển Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ trương nhất quán của Nhà nước ta là giải quyết các tranh chấp liên quan biển, đảo với các nước bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp Công ước Luật Biển năm 1982, pháp luật và thực tiễn quốc tế. Nhà nước ta đẩy mạnh hợp tác quốc tế về biển với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực, trong đó nêu nhiều lĩnh vực hợp tác cụ thể về biển và đại dương.

d. Về cơ chế quản lý biển, quản lý biển là một công việc lớn và phức tạp, có liên quan đến nhiều bộ, ngành và địa phương trong cả nước. Ðể bảo đảm nguyên tắc quản lý biển thống nhất, đồng bộ và hiệu quả, Luật Biển Việt Nam quy định Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về biển trong phạm vi cả nước; các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc Trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về biển.

Chương II: Vùng biển Việt Nam

Gồm có 14 điều quy định về việc xác định đường cơ sở, chế độ pháp lý của các vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam (nội thủy, lãnh hải) và các vùng biển thuộc quyền chủ quyền của ta (vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa), đảo, quần đảo và chế độ pháp lý của đảo.

a. Về đường cơ sở, Luật Biển Việt Nam quy định đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam là đường cơ sở thẳng đã được Chính phủ công bố. Hiện nay ta đã có đường cơ sở từ đảo Cồn Cỏ đến đảo Thổ Chu. Một số khu vực hiện nay chưa có đường cơ sở như Vịnh Bắc Bộ và các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thì Chính phủ sẽ xác định và công bố sau khi được Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn.

b. Nhà nước ta thực hiện chủ quyền đối với nội thủy và lãnh hải Việt Nam. Nội thủy của nước ta là vùng nước nằm giữa bờ biển và đường cơ sở. Lãnh hải của nước ta rộng 12 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Vùng trời, đáy biển, lòng đất dưới đáy biển của nội thủy và lãnh hải cũng thuộc chủ quyền của nước ta. Nhà nước ta thực hiện quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Vùng đặc quyền kinh tế của nước ta rộng 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Thềm lục địa của nước ta được xác định căn cứ vào phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất ra đến mép ngoài cùng của rìa lục địa. Ở nơi mép ngoài cùng của rìa lục địa chưa đến 200 hải lý thì phần thềm lục địa mở đến 200 hải lý. Ở nơi mép ngoài cùng của rìa lục địa vượt quá 200 hải lý, thềm lục địa của ta được mở rộng đến 350 hải lý theo các điều kiện và thủ tục Công ước Luật Biển năm 1982 quy định. Nhà nước ta đã căn cứ vào quy định của Công ước, tiến hành khảo sát thực tế đáy biển, xác định giới hạn thềm lục địa ở những khu vực mở rộng ra ngoài 200 hải lý. Năm 2009, Chính phủ đã gửi báo cáo về ranh giới thềm lục địa mở rộng của Việt Nam ở hai khu vực cho Ủy ban Ranh giới thềm lục địa xem xét.

Phù hợp với Công ước Luật Biển năm 1982, Luật Biển Việt Nam quy định tàu, thuyền nước ngoài được quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải nước ta. Tàu quân sự nước ngoài thông báo trước khi đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam. Luật Biển Việt Nam cũng quy định quyền tự do hàng hải, quyền tự do đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp pháp của các quốc gia khác trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam; cũng như quyền lắp đặt dây cáp, ống dẫn ngầm trên thềm lục địa Việt Nam. Việc thực hiện các quyền và hoạt động nói trên phải phù hợp Công ước Luật Biển 1982, các điều ước quốc tế khác mà Việt Nam là thành viên và luật pháp Việt Nam về biển.

c. Ðối với các đảo, quần đảo, Luật Biển Việt Nam khẳng định Nhà nước ta thực hiện chủ quyền trên các đảo, quần đảo Việt Nam. Phù hợp Ðiều 121 của Công ước Luật Biển 1982, Luật Biển Việt Nam quy định đảo thích hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì có nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; còn đảo đá không thích hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

Chương III: Hoạt động trong vùng biển Việt Nam

Gồm có 20 điều quy định về nội hàm của việc đi qua không gây hại, nghĩa vụ khi thực hiện quyền này, quy định tuyến hàng hải và phân luồng giao thông.

Luật Biển Việt Nam quy định rõ những hành vi mà tàu, thuyền nước ngoài không được làm khi đi qua lãnh hải nước ta. Cụ thể là không được đe dọa hoặc sử dụng vũ lực chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; đe dọa hoặc sử dụng vũ lực chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia khác; thực hiện các hành vi trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế được quy định trong Hiến chương Liên hợp quốc; luyện tập hay diễn tập với bất kỳ kiểu, loại vũ khí nào, dưới bất kỳ hình thức nào; thu thập thông tin gây thiệt hại cho quốc phòng, an ninh của Việt Nam; tuyên truyền nhằm gây hại đến quốc phòng, an ninh của Việt Nam; phóng đi, tiếp nhận hay xếp phương tiện bay lên tàu thuyền; phóng đi, tiếp nhận hay xếp phương tiện quân sự lên tàu, thuyền; bốc, dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người lên xuống tàu thuyền trái với quy định của pháp luật Việt Nam về hải quan, thuế, y tế hoặc xuất nhập cảnh; cố ý gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường biển, đánh bắt hải sản trái phép; nghiên cứu, điều tra, thăm dò trái phép, v.v... Tàu thuyền nước ngoài phải tuân thủ quy định pháp luật Việt Nam liên quan đến an toàn hàng hải, bảo vệ thiết bị và hệ thống bảo đảm hàng hải, đường dây cáp ngầm, bảo tồn tài nguyên biển, giữ gìn môi trường biển.

Luật Biển Việt Nam cũng nêu rõ Chính phủ quy định công bố tuyến hàng hải và phân luồng giao thông trong lãnh hải, khi cần thiết lập vùng cấm tạm thời hoặc vùng hạn chế hoạt động trong lãnh hải Việt Nam. Luật Biển Việt Nam cũng quy định tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác khi ở trong nội thủy, lãnh hải Việt Nam phải nổi trên mặt nước. Trong chương này, Luật Biển Việt Nam cũng quy định về vấn đề tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ, về giữ gìn bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, về nghiên cứu khoa học biển; đồng thời nêu cụ thể những hành vi bị cấm, như đe dọa chủ quyền, quốc phòng, an ninh Việt Nam; khai thác tài nguyên, lắp đặt sử dụng thiết bị công trình, khoan đào, nghiên cứu khoa học một cách trái phép; tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép vũ khí chất nổ, chất độc hại, mua bán người, hoạt động cướp biển, phát sóng trái phép.

Chương IV: Phát triển kinh tế biển

Chương này có năm điều quy định các nguyên tắc phát triển biển, các ngành kinh tế biển ưu tiên phát triển, vấn đề quy hoạch phát triển kinh tế biển, khuyến khích, ưu đãi đầu tư phát triển kinh tế biển trên các đảo và hoạt động trên biển.

Các nguyên tắc phát triển kinh tế biển là phục vụ xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; gắn với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn trên biển; phù hợp với yêu cầu quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển; gắn với phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương ven biển và hải đảo. Luật Biển Việt Nam quy định Nhà nước ưu tiên tập trung phát triển các ngành kinh tế biển: tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến dầu, khí và các loại tài nguyên, khoáng sản biển; vận tải biển, cảng biển, đóng mới và sửa chữa tàu thuyền, phương tiện đi biển và các dịch vụ hàng hải khác; du lịch biển và kinh tế đảo; khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản; phát triển, nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học - công nghệ về khai thác và phát triển kinh tế biển; xây dựng và phát triển nguồn nhân lực biển.

Luật Biển Việt Nam là luật cơ bản về biển của nước ta. Ngoài Luật Biển Việt Nam, chúng ta đã có các luật chuyên ngành như Luật Dầu khí, Luật Thủy sản, v.v... Những nội dung cụ thể của các ngành kinh tế biển được điều chỉnh trong các luật chuyên ngành.

Chương V: Tuần tra, kiểm soát trên biển

Chương này có ba điều quy định về lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển; nhiệm vụ và phạm vi trách nhiệm tuần tra, kiểm soát trên biển.

Luật Biển Việt Nam quy định rõ các lực lượng có thẩm quyền tuần tra, kiểm soát trên biển, gồm: Hải quân nhân dân, Cảnh sát biển, Bộ đội Biên phòng, Công an Nhân dân, các đơn vị quân đội đóng trên các đảo, quần đảo, các lực lượng tuần tra kiểm soát chuyên ngành hải quan, thủy sản, giao thông vận tải, môi trường, y tế và kiểm dịch. Các lực lượng này hoạt động theo nhiệm vụ được quy định cụ thể trong luật pháp Việt Nam và được trang bị cờ, sắc phục, phù hiệu có dấu hiệu đặc trưng. Ngoài các lực lượng chuyên trách nêu trên, khi cần thiết, các cơ quan có thẩm quyền sẽ huy động sự tham gia của các lực lượng bán chuyên trách.

Chương VI: Xử lý vi phạm

Chương này có bốn điều quy định về dẫn giải và địa điểm xử lý vi phạm, biện pháp bảo đảm tố tụng, xử lý vi phạm, biện pháp đối với đối tượng là người nước ngoài... nhằm đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng, đúng pháp luật giữa các cơ quan có trách nhiệm xử lý vi phạm Luật Biển Việt Nam.

Chương VII: Ðiều khoản thi hành

Luật Biển Việt Nam có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2013. Chính phủ sẽ ban hành những quy định hướng dẫn thi hành các điều khoản được giao ở trong luật.

Việc thông qua Luật Biển Việt Nam là một hoạt động lập pháp quan trọng nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan biển, đảo nước ta. Lần đầu tiên nước ta có một văn bản luật quy định đầy đủ chế độ pháp lý các vùng biển, đảo thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam theo đúng Công ước Luật Biển năm 1982. Ðây là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc quản lý, bảo vệ và phát triển kinh tế biển, đảo của nước ta.

Với việc thông qua Luật Biển Việt Nam, chúng ta đã thực hiện nhiệm vụ mà Quốc hội khóa IX đề ra là bổ sung quy định của luật pháp quốc gia phù hợp với Công ước Luật Biển năm 1982, bảo đảm lợi ích của Việt Nam. Cùng với việc khẳng định chủ trương giải quyết các tranh chấp biển, đảo bằng các biện pháp hòa bình, Nhà nước ta đã chuyển một thông điệp quan trọng tới toàn thế giới: Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, trong đó có Công ước Luật Biển năm 1982, quyết tâm phấn đấu vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và trên thế giới./.


Downloadải tài liệu Luật biển

T-95 xe tăng tàng hình thế hệ mới của Nga


T-95 là mẫu xe tăng Nga còn trong giai đoạn thử nghiệm. Dự đoán nó sẽ được trang bị cho quân đội Nga năm 2009 và do nhà máy Uralvagonzavod đảm trách sản xuất. Phần lớn các thông tin về T-95 vẫn còn nằm trong bí mật ( thậm chí ảnh chụp của T-95 cũng không được công bố, chỉ có Tổng thống Vladimir Putin và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Nga đã xem loại xe tăng này) nhưng nó đã thu hút sự chú ý của nhiều quốc gia trên thế giới và hứa hẹn sẽ trở thành loại xe tăng hàng đầu trong thế kỷ XXI.

Ở một số tài liệu, như trang web nuocnga.net, trang web quốc phòng irandefence.com, ... họ còn gọi T-95 là xe tăng Black Eagle. Tuy nhiên cách gọi này là sai. Thật ra Black Eagle là một mẩu tăng thử nghiệm riêng biệt với T-95, chỉ dùng cho xuất khẩu


Quá trình phát triển và ra đời

Thực tế là kế hoạch sản xuất T-95 đã có từ thời Liên Xô. Liên Xô vốn có truyền thống ưu thế về xe tăng so với các địch thủ Âu Mỹ. Tuy nhiên, kể từ cuối thế kỷ 20, đặc biệt là sau khi dòng M1 Abrams ra đời, các loại tăng Liên Xô như T-72 và T-80U trở nên lạc hậu. Yêu cầu có một loại xe tăng hiện đại mới trở nên bức thiết. Lúc đó, mẫu tăng mới này mang tên gọi là “kế hoạch 195”(Obyekt 195, hay Объект 195).

Đã có nguồn tin quân đội Liên Xô đã sẵn sàng tiếp nhận loại tăng mới này. Nhưng sau khi Liên Xô tan rã, do nền kinh tế bị khủng hoảng, kế hoạch về Obyekt 195 phải đình lại.

Đầu năm 2001, khi tình hình Nga bắt đầu ổn định thì chính sách về quân sự cũng thay đổi. Đầu tiên là khôi phục hạm đội, thiết kế máy bay chiến đấu mới. Tiếp sau đó, tại vùng núi Ural của Nga người ta đã nghe thấy về một loại tăng mới của Nga là tăng T-95, nhiều người đã cho rằng đó chính là loại tăng Black Eagle mới của Nga, nhưng thực tế hoàn toàn khác. Đó là “dự án 195” nhằm sản xuất một loại tăng hoàn toàn mới – tàng hình và khắc phục các điểm yếu của các loại tăng cũ. Có nghĩa là, Obyekt 195 đã được tái khởi động.

Cùng năm đó, Giám đốc Tổ hợp Công nghiệp quốc phòng tỉnh Sverdlov, ông Victor Batuyev, thông báo rằng T-95 sẽ được đưa vào sản xuất ngay sau khi hiện thực hóa hợp đồng bán cho Ấn Độ 310 chiếc tăng T-90S. Thông báo này chứa đựng những thông tin bí mật mà không ít các quốc gia quan tâm, nhưng ngay lập tức gây sốc với Ban giám đốc Nhà máy Uralvagonzavod - đơn vị thường được giao trọng trách sản xuất các loại tăng của Nga. Trợ lý của tổng giám đốc nhà máy này, ông Eduard Churikov, lúc đó nói: “Tôi không biết một tí gì về loại tăng này và tôi không hiểu các ông đang nói về chuyện gì!”. Nói thế cũng phải, vì thời điểm này, dây chuyền sản xuất của Uralvagonzavod đã ngừng hoạt động 10 năm, còn các công nhân có tay nghề bậc cao đối với sản xuất tăng chỉ còn đúng 1 đội.

Cho dù có thông tin trái ngược nêu trên, nhưng thực tế Nga vẫn âm thầm thử nghiệm chiếc T-95 đầy tham vọng của mình. Và giờ đây, thông tin về chiếc tăng được coi là huyền thoại này của Nga không còn là điều bí ẩn nữa. Vào ngày 22.12.2007 vừa qua, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nga, tướng Nikolay Makarov, tuyên bố: “Năm 2008, quân đội Nga hoàn thành giai đoạn thử nghiệm loại tăng mới, đến năm 2009, quân đội sẽ tiếp nhận loại tăng này.”. Và T-95 do chính nhà máy Uralvagonzavod – đơn vị từng phủ nhận thông tin về T-95 – sản xuất. Và, với sự xuất hiện của T-95 thì, theo ông Sergei Mayev, người đứng đầu của Federal Service of Defense Contracts, thì T-90 vẫn sẽ là xương sống của bộ đội Tăng thiết giáp Nga cho đến năm 2025. Còn quá trình hiện đại hóa T-80 và T-72 sẽ chấm dứt và hai loại tăng này sẽ ngừng hoạt động vào năm 2010.



Các tính năng của T-95

Cũng theo lời ông Nicolay Makarov, loại tăng mới chứa đựng những quan điểm thiết kế hiện đại nhất, không giống với bất cứ loại tăng từ trước đến nay. Đây là loại tăng của thế kỷ 21, có bộ phận di chuyển tối tân, được trang bị hệ thống bảo vệ và vũ khí tấn công tuyệt hảo vượt xa các loại T-80 và T-90. “Một số nhà máy quốc phòng của Nga không có khả năng sản xuất các bộ phận cấu thành chiếc tăng này”. Các chuyên gia quân sự mô tả chiếc tăng của thế kỷ 21 như sau: rắn chắc, gọn nhẹ, có tốc độ cao, không có nhược điểm, hệ thống điều khiển điện tử tối ưu. T-95 cũng được gọi là “tăng tàng hình” do hệ thống gây nhiễu hiệu quả của nó.

Vũ khí

T-95 tiếp nối truyền thống hỏa lực mạnh của dòng tăng Liên Xô: pháo (nòng trơn hoặc xẻ rãnh) có cỡ 135 ly, có nguồn tin nói 140-155 ly [1] (các loại pháo tăng hiện nay chỉ cỡ 120 ly (tiêu chuẩn Mỹ và Tây Âu) hoặc 125 ly (tiêu chuẩn Liên Xô cũ)). Cơ số đạn có thể lên đến 40 viên. Pháo được điều khiển từ xa và tháp pháo tự động hoá hoàn toàn, có thể bắn bằng các senser : quang học, RADA, Hồng ngoại, Laser nên tổ lái không cần ngồi trong tháp pháo mà ngồi hoàn toàn trong thùng xe. Vì vậy, tháp pháo rất thấp, không chứa người mà chỉ đủ chỗ chứa pháo thôi.[3][5] Việc bố trí như vậy cũng làm giảm độ cao cùa xe và tăng cường năng lực phòng thủ. Pháo có sơ tốc đạn 1200m/s xuyên (90 độ) 300mm, có thể bắn đạn tên lửa. (có nguồn tin khả năng xuyên thép lên tới 3m).

Ngòai ra, T-95 còn trang bị tên lửa chống tăng với tốc độ từ 350m/s ->900m/s, hệ thống phát hiện và hoàn thành phân tích, ra lệnh chiến đấu từ 50->25m (mét) tức trong vòng 1/36 giây đến 1/14 giây.

Giáp trụ và hệ thống bảo vệ

T-95 được trang bị hệ thống phát hiện đối phương từ xa, hệ thống điện đài, tự động hạ gục các mục tiêu trên không và có thể còn được trang bị các thiết bị laser. Dự án tank mới sẽ được lắp hệ thống định vị loại APS (Active Protection System-hệ thống bảo vệ nhạy) tên là ARENA. Hệ thống này Mỹ đã ngỏ ý mua bản quyền sản xuất của Nga để trang bị cho tăng trong tương lai của Mỹ nhưng Nga chỉ bán thành phẩm thôi. Hiện nay hệ thống này trang bị cho tăng T-72M1 (M2) ,T-80 UM,T-90. Cùng với nó có DROZD, được trang bị từ T-55AD, dùng Radar mm (milimet), phát hiện tên lửa, phóng tên lửa trong ổ phóng cố định chống lại.

Ngoài ra, T-95 còn được trang bị hệ thống đề kháng "Shtora" giúp báo động cho tổ lái biết rằng xe tăng đã bị “soi” bởi súng chống tăng dùng hệ thống ngắm tia laser. Hệ thống phòng thủ chủ động Kashtan-1 cũng sẽ được sử dụng, trong đó thông tin về mục tiêu sẽ được thu thập qua hệ thống thu sóng quang học, hệ thống màn hình, hệ thống tia hồng ngoại, các thiết bị khác và các thiết bị này sẽ liên kết hoạt động với hệ thống phòng thủ chủ động. Thời gian từ khi phát hiện đến khi tấn công mục tiêu của Kashtan-1 rất ngắn nhưng độ chính xác rất cao.

Đã mang tiếng là xe tăng “tàng hình”, nên T-95 được lắp thiết bị gây nhiễu quang điện CT-1 để đối phó với các loại tên lửa chống tăng của đối phương, giải quyết được vấn đề mâu thuẫn giữa năng lực phòng thủ và năng lực cơ động. Thiết bị gây nhiễu không chỉ nâng cao tính năng tàng hình của xe mà còn có thể thực hiện gây nhiễu các loại đạn pháo và các loại đầu đạn tên lửa có hệ thống dẫn đường.

Tin tức cũng tiết lộ, vỏ bọc bên ngoài của chiếc T-95 được thiết kế mới có khả năng chống lại cả hỏa tiễn, tên lửa như chúng ta từng xem trong các bộ phim giả tưởng. Vỏ giáp có thể dày đến 300mm. Để tàng hình thép để làm tăng T-95 là thép theo công nghệ tàng hình như thép composite F-117 và B-2 làm cho ra-đa không phát hiện được. Vỏ giáp liên hợp khá phức tạp, không đúc như xưa , thường có 3 lớp chiụ lực:
Lớp ngoài, rất cứng, hứng chịu lực xuyên phá của đạn tabot.
Lớp đệm chịu lực nén, kéo = hợp kim nhôm nối các khối thép.
Lớp trong chịu lực kéo, bằng hợp kim đặc biệt hay composite.

Ngoài ra: vỏ phản lực ERA (ngoài cùng, là các khối thuốc nổ định hướng) chống đạn định hướng, lớp 3 phòng chống (trong cùng, chống thấm, chống phóng xạ). Kết cấu này còn được dùng làm vỏ giáp dầy hơn nhiều.

Khả năng bảo toàn mạng sống ê-kíp lái xe cũng được nâng cao đáng kể: binh sĩ hoàn toàn cách biệt với tháp pháo, với nơi chứa và nạp đạn nên không sợ bị mảnh đạn văng trúng người gây thương vong. Đồng thời T-95 được thiết kế để không ai nhìn thấy nó khi T-95 ở đường chân trời. Theo Báo Tin tức (Izvestia), loại T-95 của Nga chỉ cần 1 người lái thay cho ê-kíp 3 người như trước đây, nhưng theo một số nguồn tin thì T-95 vẫn có tổ lái 3 đến 5 người.

Tốc độ và tính cơ động

T-95 thuộc lớp xe tăng Class 50, tức là khối lượng T-95 không quá 50 tấn. Động cơ của xe tăng có công suất từ 1500 - 1800 mã lực, hệ thống bánh xe, xích, trục lăn được thiết kế tương ứng với công suất để đảm bảo vận hành chiến thuật tốt. Một “ứng cử viên” sáng giá là động cơ tua-bin khí CTD-1250 công suất lớn và đảm bảo vận hành ổn định ở mọi địa hình. Chính vì vậy, nó hoạt động cơ động hơn, di chuyển nhanh và xoay trở cũng nhanh. Ưu điểm này cũng giúp cho máy bay vận tải có thể chở nó đến bất kỳ điểm tác chiến nào trên thế giới. Tốc độ của T-95 dự đoán lên đến 75km/h trên đường nhựa và 48km/h trên đường gồ ghề.
DBS M05479
Quang Cao