Thứ Hai, 18 tháng 2, 2013

Thị sát tổ hợp tên lửa bờ

Sáng 18/2, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến thăm và chúc Tết cán bộ, chiến sĩ Đoàn 681 Hải quân (Bình Thuận), thị sát tổ hợp tên lửa bờ Bastion và tổ hợp ra đa bờ Monolit-B.

Đoàn 681 Hải quân được trang bị một số vũ khí, khí tài, bao gồm tổ hợp tên lửa bờ Bastion và tổ hợp ra đa bờ Monolit-B. Vũ khí trong thành phần tổ hợp Bastion là các tên lửa có cánh Iakhont dùng để tiêu diệt các tàu đơn lẻ hoặc nhóm tàu như nhóm tàu tấn công, nhóm tàu hộ tống, nhóm tàu đổ bộ. Các tên lửa này có tầm hoạt động 300 km, độ cao bay tối đa là 14.000 m, độ cao bay hành trình 10-15m trên mặt nước biển, tốc độ bay tối đa 750 m/giây, trọng lượng khi phóng là 3.000 kg, trọng lượng phần chiến đấu là 200 kg.

Thủ tướng thị sát tổ hợp tên lửa bờ Bastion tại Đoàn 681. Ảnh: Chính phủ


Độ cao bay của tên lửa được tự động điều chỉnh tùy khoảng cách đến mục tiêu nhằm bảo mật và tiết kiệm nhiên liệu tối đa. Với tốc độ bay lớn, độ cao bay hành trình thấp, đến nay không có hệ thống nào có thể chống lại loại tên lửa này. Các loại tên lửa tại Đoàn 681 hiện có 4 dạng, đó là tên lửa chiến đấu, tên lửa công nghệ, tên lửa tạo giả và tên lửa bổ. Ba dạng sau dùng để huấn luyện kíp trắc thủ kết hợp kiểm tra tình trạng khí tài chiến đấu.

Nói chuyện thân mật với cán bộ, chiến sĩ Đoàn 681 Hải quân, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá cao những thành tích mà đơn vị đạt được trong thực hiện nhiệm vụ công tác, nhất là cán bộ, chiến sỹ Đoàn 681 đã phát huy cao độ truyền thống anh hùng, phát triển, trưởng thành và đi nhanh vào chính quy, hiện đại.

Thủ tướng mong muốn Đoàn 681 Hải quân tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng cách mạng, tiếp nhận, nắm chắc và làm chủ phương tiện quân sự, vũ khí, khí tài hiện đại, góp phần nâng cao sức mạnh tự vệ, giữ vững độc lập, chủ quyền lãnh thổ, biển đảo của Tổ quốc.



Thủ tướng yêu cầu cán bộ, chiến sỹ Đoàn 681 tiếp tục thực hiện nhiệm vụ hàng đầu là làm tốt công tác huấn luyện, nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu cao và chiến thắng, không để bị động, bất ngờ trước mọi tình huống. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định Đảng, Nhà nước sẽ luôn quan tâm tới việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, chiến sỹ quân đội, bảo đảm cho cán bộ, chiến sỹ trong quân đội yên tâm công tác, huấn luyện và chiến đấu, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Theo Chinhphu.vn

Không mục tiêu nào có thể lọt vào vùng trời Hà Nội

Một nửa phi công có thể bay trong mọi điều kiện thời tiết, 100% bay và tác chiến được trên biển, cùng với sức mạnh của Su-22, trung đoàn không quân 921 khẳng định, không để mục tiêu nào lọt vào bầu trời thủ đô.

Thành lập ngày 3/2/1964, trung đoàn 921 là trung đoàn không quân tiêm kích đầu tiên của Việt Nam. Từ một đơn vị huấn luyện và tác chiến với dòng máy bay Mig có trọng lượng nhỏ, khả năng mang treo vũ khí ít, bán kính tác chiến hẹp, đến nay trung đoàn đã được trang bị 100% máy bay Su hiện đại, có khả năng mang theo vũ khí đa dạng và bán kính tác chiến rộng hơn.

Trung đoàn không quân 921 (sư 371) được trang bị máy bay tiêm kích Su-22.


Chính ủy trung đoàn, Thượng tá Nguyễn Trọng Khiêm cho biết, từ tháng 11/2011, đơn vị đã tiếp nhận gần 20 chiếc Su-22. Nếu như trước đó, những cánh bay của Su chỉ xuất hiện ở bầu trời miền Trung trở vào phía Nam thì hiện nay Su-22 được tổ chức bay huấn luyện và sẵn sàng cất cánh chiến đấu trên bầu trời miền Bắc mà trung tâm được bảo vệ là Hà Nội.

Sau khi tiếp nhận Su-22 về đơn vị, trung đoàn 921 vừa huấn luyện chuyển loại cho phi công lái máy bay Mig-21 vừa thực hiện nhiệm vụ trực sẵn sàng chiến đấu. Thượng tá Khiêm cho hay, Su-22 là chiến đấu cơ đầu tiên của không quân Việt Nam bay ra tuần tiễu Trường Sa và thềm lục địa phía Nam của Tổ quốc. Su-22 có thân dài, buồng lái lớn và đặc biệt ứng dụng công nghệ cánh cụp cánh xòe cho phép tăng tốc nhanh chóng. Hiện tại Trung đoàn 921 được trang bị 3 loại máy bay chính là Su-22M, Su-22M3 và Su22-M4.

"Dòng họ máy bay Su-22 được sản xuất tại Nga, tính năng chính của nó là tiêm kích bom, nhưng đơn vị đang dùng cho nhiệm vụ tiêm kích phòng không, có thể hoạt động trên không thời gian tương đối dài với gần 5 giờ, tốc độ 2M (2 lần tốc độ âm thanh), có thể mang 4 tấn bom, lượng nạp dầu khoảng 6 tấn, bán kính hoạt động khoảng 600km", Thượng tá Khiêm nói.

Chính ủy trung đoàn, thượng tá Nguyễn Trọng Khiêm khẳng định, với sức mạnh không quân của 921 hiện tại, không mục tiêu nào có thể lọt vào vùng trời Hà Nội. Ảnh: Hoàng Hà.


Đặc biệt, Su-22M4 được nâng cấp đáng kể hệ thống điện tử gồm hệ thống dẫn đường RSDN, dẫn đường tín hiệu, dẫn đường quán tính, thiết bị đo xa laser mạnh, la bàn vô tuyến, hệ thống radar cảnh báo SPO-15LE. Ngoài ra, Su-22M4 trang bị động cơ tuốc bin phản lực AL-21F3.

Đội ngũ phi công của trung đoàn 921 rất hùng hậu so với trước đây, trong đó một nửa số phi công có thể bay đêm (phi công cấp 1) và 100% phi công có thể bay và tác chiến trên biển. Giờ bay tích lũy của những phi công này từ vài trăm giờ bay (đối với phi công trẻ) lên đến hàng nghìn giờ bay (đối với phi công cấp 1). Đây là sự vượt trội so với 40 năm trước, khi làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ trên không, phi công có khả năng bay đêm của ta ít, giờ bay tích lũy cũng thấp (chỉ trên dưới 300 giờ bay tích lũy).

Có vũ khí, khí tài mạnh, phi công giỏi, sức mạnh của trung đoàn 921 còn được tạo nên từ các lực lượng bảo đảm, các kỹ sư hàng không được đào tạo trong nước và nước ngoài. Đa số đều tốt nghiệp đại học, lực lượng này có vai trò vô cùng quan trọng, góp phần nâng cánh cho những chuyến bay an toàn.

Đội ngũ phi công của trung đoàn không quân 921 đều dày dạn kinh nghiệm, 50% có thể tác chiến trong mọi điều kiện và 100% có khả năng bay, tác chiến trên biển. Ảnh: Hoàng Hà.


Chính ủy Khiêm cho hay, hiện trung đoàn Không quân 921 đang duy trì thực hiện nhiệm vụ trực ban sẵn sàng chiến đấu tiêm kích phòng không cấp 2 và bảo vệ các loại chuyên cơ đi qua vùng trời trách nhiệm. Thời gian chuyển cấp từ cấp 2 lên cấp 1 và sẵn sàng rời đất làm nhiệm vụ của máy bay trực chiến được quy định là 10 phút 30 giây đến 11 phút.

"Với trình độ phi công, tác chiến, kĩ thuật và máy bay tiêm cường kích Su-22, chúng tôi đảm bảo rằng không mục tiêu nào có thể lọt vào vùng trời Hà Nội", ông Khiêm khẳng định.


Ngày đầu tiên của năm mới, một hồi kẻng báo động vang lên, với khẩu lệnh dõng dạc, đanh thép của sĩ quan Tác chiến ở tuyến trực ban sân bay: "Biên đội chuyển cấp 1 bảo vệ chuyên cơ", các thành phần trực ban lập tức chạy ra các vị trí, phi công leo lên máy bay làm nhiệm vụ. Chỉ trong vài phút, toàn bộ tuyến trực đã sẵn sàng chờ lệnh tiếp theo từ Sở chỉ huy.Đang trực ban chiến đấu, phi công Phạm Giang Nam tâm sự, là một người lính, anh luôn xác định việc cầm lái bảo vệ bầu trời thủ đô, Tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng và tự hào. Anh xác định rõ, nhiệm vụ của bản thân là phải làm sao phải giữ cho bầu trời của Tổ quốc phải được bình yên thực sự.

Chủ Nhật, 17 tháng 2, 2013

Nhìn lại chiến tranh biên giới Việt - Trung 1979 TQ nên rút ra bài học

Vào ngày 17.2.1979 Trung Quốc bất ngờ tung hơn 60 vạn quân nổ súng xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía bắc, nhưng đã phải rút quân sau hơn một tháng gặp sự kháng cự mãnh liệt của quân và dân ta, chịu nhiều tổn thất nặng nề.


Tuy vậy cuộc chiến tranh xâm lược này cũng mở màn cho cuộc xung đột vũ trang tại biên giới giữa VN và Trung Quốc (TQ) kéo dài suốt 10 năm sau đó. Theo thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược - Bộ Công an, với độ lùi về thời gian, việc nhìn nhận lại cuộc chiến tranh này là hoàn toàn cần thiết.

Kể từ sau khi VN và TQ bình thường hóa quan hệ (1991), hai bên dường như đều không muốn nhắc lại cuộc chiến này. Từ hơn 30 năm qua, cuộc chiến chống quân xâm lược Trung Quốc gần như không được nhắc tới. Theo ông tại sao cuộc chiến lại bị rơi vào lãng quên như vậy?

Để trả lời câu hỏi này có lẽ cần cả một hội thảo khoa học. Tôi chỉ xin lưu ý như sau, vào những năm kỷ niệm chẵn 10, 15... hay gần đây nhất là 30 năm sau cuộc chiến tranh chống TQ xâm lược (2009), báo chí, truyền hình của VN gần như không đưa tin gì về sự kiện này. Đây là một sự thiếu sót lớn trên góc độ Nhà nước. Hơn thế nữa, đó là một sự xúc phạm đến linh hồn của những đồng bào, chiến sĩ đã bỏ mình để bảo vệ Tổ quốc trong cuộc chiến tháng 2.1979 và gần mười năm sau đó. Họ nằm dưới mộ có yên không? Gia đình vợ con bạn bè và những người thân thích của họ sẽ nghĩ gì về chuyện này? Đã có ý kiến cho rằng nhắc đến những chuyện này cũng có nghĩa là kích động chủ nghĩa dân tộc. Tôi có thể khẳng định rằng nói như vậy là ngụy biện.

Trong khi chúng ta im lặng thì những dịp đó chúng tôi đã thống kê hệ thống phát thanh, truyền hình báo chí của TQ tung ra trung bình từ 600-800 tin, bài với những cái tít gần như có nội dung giống nhau về cái mà họ gọi là “cuộc chiến tranh đánh trả tự vệ trước VN”. Có thông tin cho rằng hiện tại có tới trên 90% người dân TQ vẫn quan niệm rằng năm 1979 Quân đội VN đã vượt biên giới sang tấn công TQ và bắt buộc TQ phải tự vệ đánh trả. Từ hàng chục năm nay, hệ thống tuyên truyền của TQ đã nhồi nhét vào đầu người dân TQ rằng cuộc chiến 1979 chỉ là cuộc phản công trước sự xâm lược của VN.

Theo tôi nghĩ, trong tuyên truyền đối nội và đối ngoại, cả ở kênh nhà nước, nhân dân và trên truyền thông, chúng ta phải làm rõ và góp phần làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ bản chất của cuộc chiến tranh Việt - Trung 1979. Đồng thời góp phần làm cho hơn 1,3 tỉ người TQ biết được sự thật rằng vào ngày đó hơn 60 vạn quân TQ đã vượt biên giới xâm lược VN. Việc chúng ta im lặng hàng chục năm qua, theo tôi là không đúng. Việc nói ra cũng không liên quan gì chuyện kích động chủ nghĩa dân tộc. Hãy thử so sánh chuyện đó với việc TQ tung ra hàng nghìn bài báo xuyên tạc lịch sử từ hàng chục năm qua.

Với độ lùi về thời gian, theo ông chúng ta có thể rút ra những điều gì từ cuộc chiến tranh này? Những điều đó có ý nghĩa thế nào trong bối cảnh hiện tại ?

Theo tôi, khoảng thời gian 34 năm đã là khá đủ cho chúng ta nhận thức lại những vấn đề xung quanh cuộc chiến 1979. Thế nhưng đến giờ phút này tôi có cảm giác không phải lúc nào chúng ta cũng có được sự nhận thức thống nhất, nhất quán từ trên xuống dưới.

Vấn đề thứ nhất, phải xác định rõ về mặt khoa học, cuộc chiến 1979 là cuộc chiến tranh chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc. Đây là vấn đề phải nhận thức rõ từ cấp cao nhất. Sự nhận thức ấy cũng phải được thống nhất trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Đây là chuyện không được phép mơ hồ.

Không chỉ nhận thức mà Nhà nước có trách nhiệm đưa câu chuyện này vào sách giáo khoa. Thực tế cho thấy phần lớn học sinh tiểu học, trung học và thậm chí đa số trong 1,4 triệu sinh viên hầu như không biết gì về cuộc chiến tranh này. Nếu để tình trạng này kéo dài, trách nhiệm thuộc về Nhà nước. Chắc chắn chúng ta sẽ không tránh được sự phê phán của thế hệ sau này. Hàng vạn người con ưu tú của chúng ta đã bỏ mình để bảo vệ từng tấc đất biên giới phía bắc của Tổ quốc, tại sao không có một dòng nào nhắc đến họ? Bây giờ đã quá muộn. Nhưng không thể để muộn hơn được. Theo quan điểm của tôi, Nhà nước phải yêu cầu đưa phần này vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Chúng ta không thể mơ hồ được, không thể lờ đi vấn đề lịch sử này được.


Tôi đã nhiều lần trao đổi với các học giả nước ngoài và họ đã thắc mắc khá nhiều chuyện tại sao sự kiện chiến tranh chống quân TQ xâm lược năm 1979 lại không được nhắc đến trong các giáo trình lịch sử của VN. Tôi đã phải chống chế với lý do rằng người VN muốn quên đi quá khứ và hướng đến tương lai. Nhiều học giả Hàn Quốc, Nhật Bản đã phản bác tôi vì “Lịch sử là lịch sử. Quá khứ là quá khứ. Tương lai là tương lai”. Họ nói rằng: “Chúng tôi biết người VN rất nhân hậu, muốn hòa hiếu với các dân tộc khác. Nhưng điều này không thể thay thế cho trang sử chống ngoại xâm này được”.

Thứ hai, trong thế giới hiện đại toàn cầu hóa, các quốc gia đều phụ thuộc lẫn nhau. Không có quốc gia nào hoàn toàn độc lập tuyệt đối. Ngay cả Mỹ nhiều lúc cũng phải nhân nhượng các quốc gia khác. Chúng ta không có quan niệm về độc lập chủ quyền tuyệt đối trong thời đại toàn cầu hóa. Nhưng trong bối cảnh này, phải nhận thức rõ cái gì là trường tồn? Theo tôi có 3 thứ là chủ quyền quốc gia, ý thức dân tộc và lợi ích quốc gia. Ở đây chúng ta phân biệt chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, chủ nghĩa dân tộc nước lớn với lòng yêu nước chân chính, ý thức tự tôn tự hào dân tộc. Hai cái đó khác nhau. Người VN có truyền thống yêu nước, có tinh thần chống ngoại xâm bất khuất, đó là điều cần được phát huy trong 92 triệu người VN trong và ngoài nước.

Chủ quyền quốc gia, ý thức dân tộc và lợi ích quốc gia là những cái “dĩ bất biến”, những cái còn lại là “ứng vạn biến”. Những chuyện “16 chữ”, “bốn tốt” trong quan hệ với TQ là “ứng vạn biến”. Bài học từ cuộc chiến chống xâm lược năm 1979 cho thấy nếu không nhận thức được điều này thì rất nguy hiểm.

Thứ ba, trong bối cảnh quốc tế hiện nay, tiêu chí để phân biệt người yêu nước hiện nay là anh có bảo vệ lợi ích quốc gia hay không. Trên thế giới này không có bạn bè vĩnh viễn hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia mới là vĩnh viễn. Năm nay chúng ta chuẩn bị tổng kết Nghị quyết T.Ư 8 (7.2003) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Tôi thấy có một quan điểm bây giờ vẫn đúng, đó là: "Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh". Đồng thời, cũng phải có cách nhìn biện chứng về đối tượng và đối tác: trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta, cần phải đấu tranh.

Nhìn lại từ câu chuyện của 34 năm trước đến những căng thẳng hiện tại trong vấn đề biển Đông, theo ông có thể hy vọng gì ở tương lai trong quan hệ giữa VN và TQ ?

Tạo ra lòng tin, sự hữu nghị chân thật giữa hai nước là con đường tất yếu nhưng đòi hỏi thời gian lâu dài và từ cả hai phía. Đây không phải là điều có thể hy vọng có được trong vài ba năm tới đây. Lịch sử mách bảo chúng ta muốn giữ được hòa bình, ổn định, giữ được độc lập tự chủ thì điều quan trọng nhất là giữ được lòng dân. Trên dưới một lòng, có được sự đoàn kết dân tộc thì chắc chắn không có kẻ xâm lược nào dám dại dột động đến chúng ta cả. Lịch sử VN đã cho thấy những lần mất nước đều bắt đầu từ việc chính quyền mất dân. Năm 179 trước CN An Dương Vương để mất nước là do mất dân. Một ông vua đứng đầu quốc gia mà tin vào kẻ thù thì chuyện mất nước là không thể tránh khỏi. Năm 1406, nhà Hồ mất nước cũng vì đã mất dân. Đến mức độ nhà Minh truy bắt cha con Hồ Quý Ly thì chính những người trong nước đã chỉ điểm cho quân Minh. Năm 1788 Lê Chiêu Thống sang cầu viện Mãn Thanh đưa 20 vạn quân sang giày xéo quê cha đất tổ cũng là ông vua đã mất dân. Đó là bài học muôn đời để bảo vệ chủ quyền quốc gia.




Dùng không quân chuyển quân từ chiến trường K ra tiếp viện cho biên giới phía Bắc (2-1979)
"Vào ngày này 32 năm trước, quân đội Trung Quốc đã vượt qua biên giới Việt Nam. Bắc Kinh muốn "trừng phạt Hà Nội” vì Việt Nam đã tham gia vào việc lật đổ chế độ diệt chủng Pol Pot ở Campuchia. Lực lượng Trung Quốc xâm lược bao gồm 7 quân đoàn, lên đến 600.000 người. Phía Việt Nam, đối phó với lực lượng này, lúc đó chỉ có một sư đoàn quân chủ lực, một sư đoàn quân địa phương, lính biên phòng và dân quân tự vệ, với số lượng vũ khí không nhiều, gồm có pháo, súng cối và vũ khí chống tăng.

Ngày 18 tháng Hai, chính phủ Xô viết đã đưa ra một tuyên bố, trong đó, ngoài những điều khác, có nêu rõ: "Liên bang Xô viết sẽ thực hiện các cam kết theo Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Liên Xô và Việt Nam". Hiệp ước này được ký kết tại Matxcova ba tháng trước đó.

Để biểu thị sự hỗ trợ cho Việt Nam và hướng sự chú ý của quân đội Trung Quốc theo phía nam, 29 sư đoàn bộ binh của quân đội Liên Xô gồm 250 nghìn người, với sự hỗ trợ không quân đã được điều đến khu vực gần Mãn Châu ở biên giới Xô-Trung.

Đồng thời, lãnh đạo Liên Xô đã gửi bổ sung thêm cho Việt Nam một nhóm cố vấn quân sự.

Một trong những nhà lãnh đạo của Hiệp hội các cựu chiến binh Nga trong chiến tranh Việt Nam, đại tá Gennady Ivanov nhớ lại:

“Sáng 19 tháng 2, vào ngày thứ ba của cuộc xâm lược, một nhóm các cố vấn quân sự của Liên Xô đã bay tới Hà Nội, gồm các vị tướng có kinh nghiệm nhất, đứng đầu là đại tướng Gennady Obaturov. Ngay sau khi đến nơi, họ lập tức gặp tổng tư lệnh tối cao của Quân đội nhân dân Việt Nam”.

Các cố vấn quân sự Liên Xô không chỉ nắm tình hình thực tế qua cuộc tiếp xúc với bộ trưởng quốc phòng Văn Tiến Dũng và tổng tham mưu trưởng quân đội nhân dân Việt Nam Lê Trọng Tấn, mà còn ra mặt trận, lên tuyến đầu nơi quân đội Việt Nam bảo vệ Tổ Quốc. Tại đó, họ đã rơi (vào - FDDinh bổ xung) trận pháo kích mạnh của quân Trung Quốc, nhưng may mắn thay, không ai bị thương. Tuy nhiên, đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô vẫn không tránh được tổn thất.

Tại cuộc họp kéo dài 3 giờ đồng hồ ngày 25 tháng Hai với ông Lê Duẩn, đại tướng Obaturov đề xuất di chuyển lực lượng quân chủ lực được huấn luyện tốt hơn từ Campuchia về mặt trận phía Bắc. Đề xuất này, cũng như một loạt đề xuất khác do đại tướng Liên Xô đưa ra, đã được phía Việt Nam thông qua.

Theo lệnh của tướng Obaturov, các phi công lái máy bay vận tải quân sự Xô Viết đã chuyển cánh quân Việt Nam từ Campuchia về hướng mặt trận Lạng Sơn, khiến cho tình hình lập tức thay đổi nghiêng theo hướng thuận lợi cho Việt Nam. Đầu tháng Ba năm đó, sáu cố vấn Liên Xô đã hy sinh tại Đà Nẵng trong tai nạn máy bay, khi đang giúp Việt Nam.

Tướng Obaturov cũng đã gửi các lãnh đạo Liên Xô công văn yêu cầu khẩn cấp viện trợ cho Việt Nam vũ khí và trang thiết bị bằng đường hàng không.

“Các tổ chức quân sự Matxcova nhanh chóng và tích cực đáp ứng mọi yêu cầu của nhóm cố vấn Liên Xô tại Việt Nam - Đại tá Gennady Ivanov nói tiếp. - Trong thời gian ngắn nhất, quân đội nhân dân Việt Nam đã nhận được tất cả mọi thứ cần thiết để chống lại kẻ thù. Việt Nam đã được viện trợ tên lửa "Grad", trang bị kĩ thuật cho các đơn vị thông tin liên lạc, tình báo và các phương tiện hỗ trợ chiến đấu khác, bằng máy bay vận tải quân sự.”

Các biện pháp đó đã góp phần làm cho các cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc bị sa lầy. Một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam đã chiến đấu không cho đối phương tiến lên quá 30 km kể từ biên giới.

Những kẻ xâm lược đã mất hơn 62.000 sĩ quan và binh lính, 280 xe tăng và xe bọc thép, 118 khẩu pháo và súng cối cùng một số máy bay. Ngày 05 tháng Ba năm 1979, Trung Quốc bắt đầu rút quân khỏi các vùng lãnh thổ chiếm đóng. Ngày 18.3, chiến sự đã hoàn toàn chấm dứt

Hải quân Liên Xô đã không bàng quan đứng bên ngoài những sự kiện dữ dội ấy. Đó là nội dung buổi phát thanh ngày mai của chúng tôi. Mời các bạn đón nghe Đài Tiếng nói nước Nga, phát thanh từ Matxcova.
Vào những ngày này 32 năm trước, quân đội Trung Quốc đã tấn công vào miền Bắc Việt Nam. Bắc Kinh muốn "trừng phạt Hà Nội” vì Việt Nam đã tham gia vào việc lật đổ chế độ diệt chủng Pol Pot ở Campuchia.

Trong chương trình lần trước, chúng tôi đã nói về vai trò của các cố vấn quân sự Liên Xô đã giúp cho quân đội nhân dân Việt Nam đối phó với lực lượng Trung Quốc gồm 600.000 người, về các đợt cung cấp vũ khí và kỹ thuật quân sự của Liên Xô. Hồi đó, không chỉ các tỉnh miền Bắc mà cả bờ biển phía Bắc của Việt Nam cũng bị đe dọa bởi Hạm đội Nam Hải của Trung Quốc gồm gần 300 tàu chiến.

Sau đây là ý kiến của nhà Việt Nam học, sử gia Maxim Sunnerberg: “Khi quân đội Trung Quốc vượt qua biên giới Việt Nam, một tàu tuần dương và một tàu khu trục của Hạm Đội Thái Bình Dương đang hiện diện tại các điểm quan trọng của biển Đông để phô trương sự hỗ trợ của Liên Xô cho Việt Nam. Sau mấy ngày chiến sự giữa Việt Nam và Trung Quốc có thêm mấy tàu chiến của Liên Xô tiến tới khu vực. Sau ngày 20 tháng Hai, 13 tàu chiến, kể cả mấy tàu ngầm, đã chờ đợi đoàn tàu mới do tàu tuần dương “Đô đốc Senyavin” và tàu dương hạm tên lửa “Vladivostok” dẫn đầu tới khu vực. Đầu tháng 3, đoàn tàu xô-viết bao gồm 30 tàu chiến”.

Sau đây là đoạn trích từ nhật ký của thuyền trưởng tàu ngàm “B-88” Fedor Gnatusin:

“Đầu năm 1979, tàu chúng tôi đang bảo quản tại xưởng đóng tàu. Rồi vào tháng 2, có lệnh khẩn cấp ra biển. Các quả ngư lôi, lương thực và thiết bị kỹ thuật đã được rất nhanh xếp lên tàu. Đã có mấy tàu chiến khác cũng lên đường đi Việt Nam từ Vladivostok và Nakhodka”.


Còn đây là đoạn trích từ nhật ký của trung tá hải quân Vladimir Glukhov:

“Với tư cách chỉ huy bộ tham mưu của sư đoàn, tôi đã có nhiệm vụ đảm bảo đoàn tàu chiến Liên Xô chuyển đến Việt Nam, cụ thể đảm bảo các tàu chiến ghé vào các cảng Việt Nam. Cần phải kiểm tra độ sâu, hành trình di chuyển, hải lưu, kiểm tra bến tàu. Chúng tôi đã mất một ngày đêm để thực hiện công việc này, và sau 5 ngày nữa đã ghé vào cảng Đà Nẵng. Rồi chúng tôi hướng tới bán đảo Cam Ranh, nơi đang thành lập căn cứ hải quân Liên Xô. Mọi người đã làm việc khẩn trương để tiếp đón các tàu chiến của Hạm đội Thái Bình Dương”.

Các thủy thủ xô-viết đảm bảo hành trình an toàn cho các tàu vận tải từ Vladivostok, Nakhodka và Odessa chở hàng tiếp tế cho Việt Nam. Trong thời gian chiến sự, 6 tàu thủy Liên Xô đã tới cảng Hải Phòng vận chuyển kỹ thuật quân sự, kể cả tên lửa và thiết bị radar giành cho Việt Nam.

Đoàn tàu Liên Xô đã hiện diện ở vùng biển Đông đến tháng 4 năm 1979. Kết quả là, hạm đội Hải Nam của Trung Quốc không tham gia hoạt động quân sự chống Việt Nam.

Nhà Việt Nam học, sử gia Maxim Sunnerberg nói tiếp: “Trong khi đó, thủy thủ Liên Xô đã phải đối phó đoàn tàu Mỹ do tàu chở máy bay “Constellation” dẫn đầu đã hiện diện ở khu vực Đông Nam Á từ ngày 6 tháng 12 năm 1978. Ngày 25 tháng 2 năm 1979, các tàu chiến Mỹ đã chuyển đến bờ biển Việt Nam như người Mỹ giải thích “để kiểm soát tình hình”. Các tàu ngầm của Liên Xô đã chắn hành trình tiến tới vùng chiến sự không cho tàu chiến Hoa Kỳ đến gần bờ biển Việt Nam. Một số tàu ngầm vẫn ở lại dưới nước, số khác hiện lên trên mặt nước. Hóa ra, hệ thần kinh của các thủy thủ Liên Xô là vững vàng hơn – tàu chiến Mỹ không dám vượt qua tuyến ngăn chặn do các tàu ngầm Liên Xô xây dựng. Ngày 6 tháng 3, các tàu chiến Hoa Kỳ đã rời khỏi vùng biển Đông”.

36 thủy thủ của Hạm đội Thái Bình Dương đã được tặng huân huy chương của Chính phủ Liên Xô vì lòng dũng cảm và chủ nghĩa anh hùng trong thời gian Việt Nam đối phó với cuộc xâm lược của Trung Quốc."

Sốc với đôi trai gái làm tình giữa đường

Cộng đồng cư dân mạng Trung Quốc xôn xao với những hình ảnh một đôi trai gái làm... "chuyện ấy" ở nơi công cộng giữa thanh thiên bạch nhật.

Đôi thanh niên này đã âu yếm, "mơn trớn" nhau vào buổi trưa vắng người ở một khu ngõ cụt tại thành phố Long Châu (tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc). Không chỉ dừng lại ở đó, đôi thanh niên này "làm chuyện người lớn" ngay tại chỗ.


Đôi nam nữ trẻ măng âu yếm nhau nơi góc ngõ.


Bắt đầu có những hành động "quá khích".

Hình ảnh "đắm đuối" của đôi nam nữ trẻ không màng tới xung quanh.


Những hình ảnh của cả quá trình bị "chộp" lại từ cửa sổ kính tầng hai của khu nhà sát đó và đăng tải lên trang mạng xã hội vào ngày 25 tháng 12 vừa qua. Tác giả của chùm ảnh chia sẻ: "Lúc đầu, tôi chỉ vô tình nhìn thấy khi đi ra cửa sổ sau để nghe điện thoại, thấy họ "quấn quýt" quá ở giữa nơi công cộng nên tò mò theo dõi. Thật không ngờ, họ lại có thể hành động như vậy".


Tác giả tò mò, theo dõi và ghi lại những hình ảnh từ cửa sổ phía sau của căn phòng sát ngõ.


Hình ảnh sỗ sàng ngay nơi công cộng của đôi thanh niên trẻ.



Gây sốc toàn tập với hành động tự nhiên quá đà.

Ngay khi chùm ảnh được đăng tải lên các trang mạng xã hội, lập tức thu hút sự quan tâm của mọi người và hàng loạt ý kiến phản hồi bày tỏ thái độ phản cảm, bất ngờ trước hành động không tưởng này.

Theo TTVN

Thứ Sáu, 15 tháng 2, 2013

Nhật Bản: Người và tạo hình anime/manga giống hệt nhau

Những bộ phim hoạt hình hay truyện tranh mang phong cách Nhật Bản đã “đánh cắp” trái tim của rất nhiều người hâm mộ, không chỉ ở riêng đất nước mặt trời mọc mà còn trên toàn cầu. Theo số liệu của tạp chí Time, hiện nay, anime và manga chiếm 60% số lượng phim hoạt hình được sản xuất trên toàn thế giới với rất nhiều thể loại khác nhau như: hành động, hài, tình cảm, phiêu lưu ...Nhật Bản cũng là một trong số những nước có lượng khán giả thường xuyên đến rạp để xem những bộ phim hoạt hình đông nhất thế giới.

Đối với nhiều người, anime và manga như là một “lối thoát” ra khỏi thực tế. Nhờ có anime và manga họ có thể thỏa sức để trí tưởng tượng bay xa. Nhiều người còn chọn các nhân vật này là những hình mẫu lý tưởng cho bản thân họ trong cuộc sống hàng ngày. Việc hóa trang, chọn kiểu tóc, các trang phục và phụ kiện giống hệt các nhân vật anime hay manga đã trở thành sở thích của rất nhiều người. Không chỉ thế, nhiều người còn chọn cách "anime hóa" những nhân vật thật nữa.

Hãy cùng chiêm ngưỡng những bức ảnh người thật đặt cạnh những tạo hình y-như-đúc theo phong cách anime/manga nhé! Thật thú vị khi người thật và anime, manga lại có thể trông giống nhau như vậy.









Tình yêu dành cho những anime này đã vượt khỏi biên giới đất nước mặt trời mọc
cụ thể là những hình ảnh anime/manga được hiện thực hóa bởi một người mẫu phương Tây















Ngay cả những chú chó đáng yêu cũng được tham gia "đóng thế".





Và dưới đây là những hình ảnh đậm chất manga/anime hài hước:


Theo Cuoi24h.com.vn
DBS M05479
Quang Cao