Lịch sử
Tờ tiền giấy mệnh giá 1000 đồng với hình Ngân hàng Quốc gia Việt Nam
Năm 1953, chi nhánh Việt Nam của Viện Phát hành Quốc gia Việt, Miên, Lào (tiếng Pháp: Institut d'Emission des Etats du Cambodge, du Laos et du Vietnam) đã phát hành các giấy bạc có hai tên gọi trên đó là piastre và đồng. Đồng thời, hai chi nhánh khác có dàn xếp tương tự với riel ở Campuchia và kíp ở Lào. Tiền Đồng lưu hành ở những khu vực ở Việt Nam không nằm dưới sự kiểm soát của lực lượng cộng sản, hạn chế ở Nam Việt Nam.
Năm 1955, các tờ giấy bạc đồng độc lập thực sự đã được Ngân hàng Quốc gia Việt Nam phát hành.
Hối suất
Năm | Hối suất |
---|---|
1953 | 1 : 35 |
1960 | 1 : 73,5 |
1966 | 1 : 80 |
1970 | 1 : 275 |
1972 | 1 : 550 |
1975 | 1 : 700 |
Hối suất được quy định vào năm 1953 là 1 đồng = USD 0,2857, tức là USD 1 = 35 đồng.[1] Giá trị tiền sau đó giảm dần trong khi lượng tiền lưu hành tăng từ 6,78 tỷ đồng vào năm 1955 lên thành 27,4 tỷ đồng vào cuối năm 1964. Hối suất chính thức sang thập niên 1960 tăng thành USD 1 = 73,5 đồng trong khi giá thị trường ở khoảng 1 USD = 130-180 đồng.[2] Năm 1966 hối suất tăng thành USD 1 = 80 đồng. Tỷ lệ này giữ nguyên cho dù tình hình kinh tế suy thoái và sang năm 1970 giáchợ đen có khi lên tới USD 1 = 400 đồng.
Tiền 50 đồng Việt Nam Cộng hòa năm 1975Tháng Mười năm 1970 chính phủ Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam cho điều chỉnh lại hối suất chính thức, giảm giá trị một đồng thành USD 1 = 275 đồng, tức 1 đồng = USD 0,036 cho một số chuyển ngân ngoại tệ.[3]
Năm 1972 kinh tế càng khó khăn cùng lúc chiến cuộc khốc liệt trong Mùa Hè Đỏ Lửa, chính phủ phá giá đồng tiền với mục đích kích thích xuất cảng. Hối suất tăng vụt lên thành USD 1 = 550 đồng. Ngành xuất cảng khởi sắc nhưng giá trị mãi lực và lợi tức của người dân giảm mạnh. Đến năm 1975, năm cuối cùng của chính thể Việt Nam Cộng hòa thì USD 1 = 700 đồng.[4]
Tiền kim loạiNăm 1953, tiền kim loại các mệnh giá 10, 20, 50 xu đã được đưa vào lưu hành. Năm 1960, có thêm tiền kim loại mệnh giá 1 đồng; sau đó là 10 đồng năm 1964, 5 đồng năm 1966 và 20 đồng năm 1968. 50 đồng được đúc năm 1975 nhưng chưa kịp lưu hành thì Việt Nam Cộng hòa sụp đổ; toàn bộ tiền bị hủy bỏ dưới dạng kim loại phế thải, rất hiếm tiền xu này còn tồn tại. Các tiền kim loại đã phát hành có thể tạm chia ra 5 xê ri
Xê ri đầu
Mệnh giáĐường kínhVật liệuMặt trướcMặt sauNăm đúc
10 xu 23 mm Nhôm 3 phụ nữ, "Quốc gia Việt Nam" cây lúa, "Việt Nam" 1953
20 xu 27 mm
50 xu 31 mm Hai con rồng, "Việt Nam"
Xê ri thứ hai
Mệnh giáĐường kínhVật liệuMặt trướcMặt sauNăm đúc
50 xu 31 mm Nhôm Ngô Đình Diệm, "Việt Nam Cộng Hòa" tre 1960
1 đồng 23 mm Đồng-nickel
Tiền giấyThời Đệ nhị Cộng hòa loạt tiền giấy lưu hành mang mệnh giá: 20 đồng, 50 đồng, 100 đồng, 200 đồng, 500 đồng và 1000 đồng.[5]
Hình tiền giấy Việt Nam Cộng hòa
Tiền giấy 1000 đồng (1955) mặt trước
Tiền giấy 1000 đồng (1955) mặt sau
Tiền giấy 5 đồng (1955) mặt trước
Tiền giấy 5 đồng (1955) mặt sau
Tiền giấy 10 đồng (1955) mặt trước
Tiền giấy 10 đồng (1955) mặt sau
Tiền giấy 200 đồng mặt trước
Tiền giấy 200 đồng mặt sau
Tiền giấy 10000 đồng
Tiền 1.000 đồng
Tiền 500 đồng
Tiền 500 đồng
Tiền 200 đồng
Tiền 100 đồng
Tiền giấy 100 đồng
Tiền giấy 50 đồng
Tiền giấy 20 đồng
Tiền giấy 1 đồng
Tiền 10 đồng
Tiền 5 đồng
Tiền 1 đồng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét