Hiển thị các bài đăng có nhãn lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 23 tháng 12, 2014

Các thói quen “mất vệ sinh” thời Trung Cổ

Bạn đã bao giờ tưởng tượng mình sẽ sống ra sao nếu không thay quần áo trong vòng một tháng? Hay điều gì sẽ xảy ra nếu bạn rửa mặt mỗi ngày bằng… nước tiểu?

Chắc chắn những việc làm ấy sẽ khiến bạn nổi da gà vì kinh sợ. Tuy nhiên, trong thời kỳ Trung Cổ (thế kỷ V – thế kỷ XV), đây từng là thói quen của không chỉ một người mà hàng trăm ngàn người khác trên hành tinh.

Vậy còn những thói quen “mất vệ sinh” nào từng xuất hiện trên thế giới khi ấy. Hãy cùng tìm hiểu danh sách ngay sau đây để có được câu trả lời.

1. Đi vệ sinh và giữ ngay “sản phẩm” dưới gầm giường



Một chiếc bô gỗ thời xưa

Việc ra ngoài vào ban đêm nhằm “giải quyết nỗi buồn” từng là điều đáng sợ đối với những người sống ở thời Trung Cổ. Để giải quyết vấn đề này, người châu Âu xưa đã sử dụng bô và các dụng cụ chứa đựng chất thải ngay trong nhà mình.







Khi có nhu cầu, họ chỉ cần đi vệ sinh ngay trong nhà mà không phải ra ngoài. Sản phẩm sẽ được trữ trong bô dưới gầm giường và giữ trong vòng vài ngày sau đó.

2. Nhổ răng ở hiệu cắt tóc




Trong suốt thời Trung Cổ, nha sĩ là một khái niệm không hề tồn tại trong xã hội. Vào thời đó, những người bị bệnh răng lợi thường chỉ có một cách chữa trị duy nhất, đó là ra hiệu… cắt tóc.



Ở đây, thợ cắt tóc sẽ dùng kìm giúp họ nhổ răng mà không quan tâm căn bệnh họ mắc là gì. Tất nhiên, dụng cụ thực hiện chẳng mấy khi được vệ sinh một cách sạch sẽ như ngày nay nên không khó hiểu khi bệnh răng miệng sẽ càng nặng thêm sau khi chữa.

3. Dùng lá cây làm giấy vệ sinh

Thời Trung Cổ, vua chúa quý tộc thường thuê những người phục vụ riêng chuyên đảm nhận việc vệ sinh cho họ sau khi “giải quyết nhu cầu”.


Những loại lá cây bản to như thế này được người Trung cổ tận dụng một cách tối đa

Còn với thường dân, họ buộc phải tự lo cho bản thân bằng cách sử dụng giấy vệ sinh. Nhưng vì kinh tế eo hẹp nên họ thường xuyên sử dụng các loại lá cây bản to để làm giấy vệ sinh cho mình.

4. Người xưa ít khi thay quần áo


Đối với người bình nghèo, việc có quần áo mặc đã khó huống chi là có nhiều quần áo để thay đổi liên tục

Ở châu Âu thời Trung Cổ, số lượng quần áo may mặc không nhiều và phổ biến. Một người dân trung bình chỉ có 4 bộ quần áo cho mỗi mùa kéo dài 3 tháng. Vì vậy, họ thường xuyên phải mặc quần áo bẩn tới hàng tuần lễ.


Chân dung vua James VI của Scotland - vị quý tộc mặc "bẩn" có tiếng thời Trung cổ

Ngay cả các thành viên hoàng gia cũng có thói quen trên. Vua James VI của Scotland thậm chí mặc quần áo bẩn đi ngủ và không thay trong hàng tháng trời.

5. Dùng giẻ lau cũ và rêu làm băng vệ sinh


Sự nghèo khó và kém phát triển khoa học khiến những ngày "đèn đỏ" trở thành nỗi ác mộng của phụ nữ thời xưa

Thời Ai Cập cổ đại, phụ nữ dùng giấy cói để luôn được sạch sẽ trong những ngày “đèn đỏ”. Trong khi đó, dụng cụ vệ sinh của phụ nữ Hy Lạp lại sử dụng giẻ lau quấn quanh một miếng gỗ nhỏ.


Rêu khô bện với giẻ lau cũng có thể trở thành băng vệ sinh của phụ nữ thời Trung cổ

Nhưng ở nhiều nơi khác trên thế giới, nhiều phụ nữ thậm chí sử dụng rêu, da động vật làm băng vệ sinh vì nghèo khó.

6. Dùng nước tiểu rửa mặt



Giới quý tộc châu Âu xưa tin rằng, khả năng sát khuẩn của nước tiểu rất tốt cho làn da. Vì vậy, phụ nữ trong gia đình hoàng gia xưa rất ưa dùng nước tiểu để chăm sóc da mặt của mình.



Ngoài ra, họ cũng trộn nước tiểu với dung dịch kiềm để giặt quần áo. Tới thời kì Victoria (khoảng thế kỷ XIX), nước tiểu và rượu thậm chí còn được coi là chất khử trùng trong y học.

7. Dùng mỡ động vật làm tóc thêm bóng đẹp



Những mái tóc dày, xoăn và bồng bềnh luôn là niềm mơ ước của phụ nữ thời Trung Cổ, nhất là trong các gia đình thượng lưu, quyền quý.



Vì vậy, trong các buổi tiệc linh đình, không ít chị em sử dụng mỡ động vật để có bộ tóc đẹp như ý. Những bộ tóc này có bề ngoài trông rất đẹp song lại bốc mùi khó chịu và rất dễ bắt lửa.



Để che giấu mùi hôi khó chịu của tóc, phụ nữ thời đó thường sử dụng thêm tinh chất nước hoa đậm đặc.

8. Đốt vết thương để ngăn nhiễm trùng


Đối với các kị sĩ Trung Cổ, các vết thương nhiễm trùng luôn gây ra sự khó chịu. Vì thế, họ thường xuyên tìm đến các thợ rèn để chữa trị.

Ở đây, thợ rèn sẽ dùng thanh sắt nung nóng đỏ để làm cháy các vết thương hở của bệnh nhân. Họ quan niệm rằng tuy phải chịu đau đớn song nhiệt độ của thanh sắt cũng sẽ tiêu diệt vi khuẩn và vi trùng của vết thương.

9. Dùng lưu huỳnh để chữa mụn và tàn nhang


Tàn nhang - nỗi khiếp sợ của phụ nữ thời Trung Cổ

Thời xưa, tàn nhang và mụn trứng cá luôn được coi là nỗi kinh hoàng của các chị em. Vì vậy, phụ nữ châu Âu xưa đã nghĩ ra một phương pháp làm đẹp: dùng lưu huỳnh bột để xoa mặt.


Bột lưu huỳnh - thứ mỹ phẩm trị tàn nhang cực kì nguy hiểm mà phụ nữ xưa không hề hay biết

Họ tin rằng cọ xát lưu huỳnh lên da mặt hàng ngày sẽ giúp giảm thiểu sự xuất hiện của tàn nhang nhanh chóng. Thói quen này chỉ biến mất khi các nhà khoa học phát hiện ra lưu huỳnh bột rất nguy hiểm với con người chứ không có tác dụng như chị em lầm tưởng.

Theo Trí thức trẻ

Thứ Bảy, 7 tháng 12, 2013

Nelson Mandela

Nelson Mandela, không chỉ là người anh hùng dẫn dắt Nam Phi thoát ách chế độ phân biệt chủng tộc và trở thành vị tổng thống da đen đầu tiên của nước này, mà còn là biểu tượng quốc tế cho tinh thần tự do, đoàn kết dân tộc và lòng vị tha. Hôm trước có người bạn hỏi tôi về ông ấy nhưng 2 ngày sau tôi mới biết về sự ra đi của Ông nên tôi muốn dành một bài viết về ông.

Cố tổng thống Nelson Mandela. Ảnh: Camera Press

Thứ Bảy, 12 tháng 10, 2013

10 loại nguyên nhân dẫn đến phạm tội

10 . Nạn nhân của quyết định không công bằng và hệ thống điều chỉnh ( hệ thống nhà tù ) :


Nạn nhân của quyết định không công bằng hoặc không chính xác từ tòa án thường làm cho con người vào một cuộc sống của tội phạm. Nó thường xảy ra rằng một người là nạn nhân của cơ hội và sẽ xảy ra rơi vào tội ác . Bên cạnh đó, người ta cũng thường vu cáo phạm tội mà kết thúc trong bản án của tòa án. Nhà tù hoặc tù thường làm cho bọn tội phạm tồi tệ hơn ra khỏi người vì những điều kiện tồn tại ở đó. Sửa chữa bất cứ nơi nào không liên quan đến phục hồi chức năng lớn cho bọn tội phạm và thường xuyên hơn không họ sẽ được ném vào nhà tù quá đông đầy những người là người hoặc là nạn nhân hay thủ phạm của tội ác nghiêm trọng hơn của mình. Các giải mật của người dân trong các nhà tù cũng là một nguyên nhân chính tạo ra tội phạm .

9 . Ma túy :


Ma túy là một trở ngại nào, dù chúng ta nhìn vào chúng. Một người nghiện ma túy là không thể hỗ trợ nghiện của họ và thường xuyên hơn không họ kết thúc trong một cuộc sống của tội phạm nhiên liệu thói quen của họ . Nó không phải là không biết bất cứ nơi nào trên thế giới mà một người nghiện ma túy kết thúc phạm tội để quyên tiền cho thói quen của họ . Bên cạnh đó cũng có một số lượng lớn của người có liên quan đến buôn bán ma túy . Mặc dù những người này có thể không thực sự được sử dụng ma túy chính mình, họ thường thu hút người khác vào ma túy và tội phạm.

8 . Trầm cảm và rối loạn xã hội và tinh thần khác :


Trầm cảm cũng là một nguyên nhân chính của tội phạm. Khác với trầm cảm , những người có rối loạn tâm thần nghiêm trọng cũng kết thúc phạm tội. Những người như vậy cần được điều trị trước khi xu hướng và các bệnh của họ được ra khỏi tay . Một người theo trầm cảm hoặc một số rối loạn tâm thần nghiêm trọng khác cũng có thể dễ dàng gây hại cho bản thân .

7 . Điều kiện gia đình :


Có rất nhiều điều mà đi vào trong các gia đình thường làm cho con người có được một cuộc sống của tội phạm. Ở đây một lần nữa có rất nhiều điều kiện khác nhau mà dẫn một người vào tội phạm . Lạm dụng trong năm hình thành từ các thành viên gia đình và các hành vi như vậy cũng kích động một người vào một cuộc sống của tội phạm. Những người đang bị bỏ rơi bởi gia đình của họ và không có được tình yêu và sự quan tâm mà họ cũng mong muốn nhận được vào các hoạt động tội phạm. Bạo lực gia đình và các vấn đề khác cũng liên quan đến tội phạm bằng nhiều cách.

6 . Chủ nghĩa khu vực :

Chủ nghĩa khu vực là nguyên nhân chính của tội phạm và tình trạng bất ổn trong nhân dân. Những người như vậy mà nuôi dưỡng cảm xúc regionalist như vậy thường đi đến độ dài lớn để phạm tội ác chống các cộng đồng khác . Thực tế này thường bị bỏ qua bởi những người và cơ quan hành chính như là bị bị cuốn vào phân loại của người dân theo vùng. Nó thường là một nạn nhân của chủ nghĩa khu vực như được ảnh hưởng và đi vào ofcrimes thế giới .

5 . Game, TV, truyện bạo lực :


TV bạo lực đã tăng lên đến mức đáng kinh ngạc và nó không giúp đỡ khi người bị ảnh hưởng và cố gắng thi đua hành vi bạo lực. TV bạo lực là nguyên nhân chính của tội phạm đặc biệt là với những người trẻ không có khả năng phân biệt giữa tiểu thuyết và thực tế . Kể từ khi truyền hình đã trở thành một phần không thể thiếu của cuộc sống con người ngày nay , điều quan trọng là để vẽ đường rõ ràng giữa những gì là thật và cái gì không.

4 . phân biệt chủng tộc :


Phân biệt đối xử dựa trên chủng tộc là một vấn đề nghiêm trọng trên toàn thế giới . Tất cả mọi người đang ở trong một cách phân biệt chủng tộc đối với một số người trong một số phần của thế giới này hay cách khác . Phân biệt chủng tộc đã đóng góp rất nhiều của tình trạng bất ổn đến nhiều nơi trên toàn thế giới và nó chủ yếu là do một hoặc hai kẻ ngốc mà tội ác như thế được sinh ra . Đó là một thực tế đáng buồn của thế giới mà chúng ta đang sống trong đó chúng tôi kết thúc phân biệt đối xử chống lại một cái gì đó là thịt của thịt cùng và máu bên dưới mặc dù hình dáng bên ngoài và nguồn gốc có thể khác nhau .

3 . chính trị :


Chính trị thường là nguyên nhân của tội phạm. Nó được xem là nhiều hiệp hội chính trị trên toàn thế giới có mafia của mình chạy mà họ sử dụng để thao tác và chinh phục mọi người . Quyền lực chính trị thường bị lạm dụng để tận dụng lợi thế của các nhóm yếu hơn và mọi người và chia rẻ mà tăng ra khỏi tình huống như vậy thường buộc các nạn nhân phải nhờ đến tội phạm. Chính trị là có liên quan đến bọn tội phạm trên một lớn hơn nhiều và mức độ ghê tởm hơn nhiều so với bất cứ điều gì khác .

2 . nghèo :


Thiếu thốn kinh tế hoặc đơn giản là nghèo đói là nguyên nhân chính của tội phạm trên toàn thế giới . Mọi người thường hướng đến độ dài lớn của sự tuyệt vọng của đói nghèo và điều này là nguyên nhân chính của tội phạm trên toàn thế giới . Thực tế là sự thất vọng như vậy được tạo ra tự nó là một điều rất nguy hiểm cho xã hội trên cả khi lạm phát toàn cầu đã tăng đáng kể trong vài năm qua. Mặc dù nó có vẻ rằng trong thế giới ngày nay , người giàu trở nên giàu hơn và người nghèo càng nghèo hơn .

1 . Bùng nổ dân số :


Tăng dân số là nguyên nhân lớn nhất của tội phạm và nhiều lo lắng của thế giới . Mặc dù gia tăng dân số có liên quan đến mỗi và mọi nguyên nhân đề cập ở đây , nó vẫn cần phải được xem xét như là một nguyên nhân của tội phạm. Sự gia tăng dân số gây nên một hiệu ứng máy phát điện trong xã hội và điều này dẫn đến việc tạo ra nhiều hơn những người có một số hình thức của sự thất vọng hay sự oán giận đối với xã hội như vậy.

10 loại vũ khí của mọi thời đại

10 Walther PPK

Walther PP pistols were among the most important developments of the inter-war period. Produced between 1929 and 1945 in significant numbers, these pistols, among with the basically similar but smaller PPK, were widely used as police and military guns in Hitler’s Nazi Germany. Many of the post-war intelligence agencies standardized on the PPK. In addition to MI5 and MI6, the PPK has been used by German BND, Frances’ SDECE, Israel’s Mossad and Switzerland’s Intelligence and Security Service. The Chinese intelligence service actually issued a PPK clone.



9. Sniper Rifle

The main intention of this sniper is to demolish targets at extended ranges with aimed fire, and with as few ammunition as possible. The range for sniper fire may vary from 100 meters or even less in police/counter-terror scenarios, or up to 1 kilometer or more – in military or special operations scenarios.



10 vị tướng của thế kỷ 20

10. Ahmad Shah Massoud

Ahmad Shah Massoud, also known as “The Lion of Panjshir”, was an Afghan freedom fighter and a great military leader during the Soviet occupation of Afghanistan between 1979 and 1989 and during the civil war that followed. He was an engineer from Kabul University where he got involved in the anti communist movement. When the Soviets attacked he was one of the hundreds of local guerrilla leaders who resisted the Red Army. He was one of the best leaders in Afghanistan and defended his territory in northern Afghanistan against all other factions. He kept trying to unite the several factions of Afghanistan under one united government but failed when the Pakistan backed Taliban came to power. In 2001, two days before the twin towers attack, Ahmad Shah Massoud was assassinated by Al Qaeda suicide bombers.



9. Chester W. Nimitz

Chester W. Nimitz was the Fleet Admiral of the United States Navy and during World War 2 he held the dual command of Commander in Chief, United States Pacific Fleet for the United States Navy and Commander in Chief, Pacific Ocean Areas for U.S. and Allied air, land and sea forces. He took over the command after the Pearl Harbor attacks by the Japanese and his tactical strategy which he stuck to diligently proved that his campaign was one of the most successful campaigns of World War Two and helped in defeating Japan.




8. Sam Manekshaw
Sam Manekshaw was known as “Sam Bahadur” which literally translates to “Sam the brave”. He was the first Indian Army officer to be promoted to the rank of Field Marshal. His career started in the British Indian Army during World War Two. He became the 8th Chief of Staff of the Indian Army and led the victorious campaign during the Indo-Pakistani War of 1971 that resulted in the independence of Bangladesh.




7. Bernard Montgomery

Field Marshal Bernard Law Montgomery, 1st Viscount Montgomery of Alamein, was one of the most interesting characters of World War Two. He started his military career in First World War but gained fame in World War Two when he commanded the 8th army in the Western Desert Campaign and defeated the German Erwin Rommel in the Battle of El Alamein. He planned the D-Day invasion of Normandy. After the war he became Commander in Chief of the British Army of the Rhine and then Chief of the Imperial General Staff. He was notorious among fellow officers for his pomposity and disregard for other officers but also beloved to the troops who fought under him for his genuinely emphatic concern for their welfare.




Thứ Tư, 2 tháng 10, 2013

Chuyện của Michael Faraday

Michael Faraday (1791-1867) là một nhà khoa học lỗi lạc người Anh . Thuở nhỏ , Faraday là một học sinh ngoan ngoản và chăm chỉ , Faraday phải nghỉ học rất sớm vì nhà nghèo để đi học việc ở một tiệm đóng sách . Tuy không còn được đi đến trường để nghe thầy giảng dạy và hằng ngày phải vật lộn với công việc cuả chủ giao cho , Faraday vẩn quyết chí tự học , học trong sách và ỏ các lớp giảng chuyên đề vào buổi tối . Ngày qua ngày , Faraday kiên nhẩn học tập , tích lũy kiến thức , quyết tâm theo đuổi việc nghiên cứu khoa học .
Hội Hoàng Gia Khoa Học Luân Đôn " là một trong các tổ chức khoa học lớn nhất cuả thế giới được thành lập vào năm 1660 . " Hội Hoàng Gia Khoa Học Luân Đôn " . Năm 1813 , lòng kiên nhẩn và kiến thức khoa học cuả Faraday đã thuyết phục được các hội viên nhận ông vào làm phụ tá ở phòng thí nghiệm của hội , và năm 1824 ông được bầu làm hội viên chính thức .
Từ nay người thợ nghèo ba mươi tuổi được chính thức công nhận là một nhà bác học , một kết quả rất xứng đáng với quảng đời thanh xuân lao tâm học tập và rèn luyện vất vả .

Louis Pasteur



Louis Pasteur sinh ngày 27/12/1882 ở Dole (Pháp) . Khám phá của ông cho rằng hầu hết các bệnh nhiễm trùng là do những mầm bệnh, mang tên "lý thuyết về mầm bệnh", là một trong những khám phá quan trọng nhất trong lịch sử y học. Sự nghiệp của ông trở thành nền móng cho ngành vi sinh, và là cột mốc đánh dấu bước ngoặt của y học hiện đại . Tóm tắt những đóng góp to lớn của Pasteur cho vi sinh và y học: Thứ nhất, ông đấu tranh đòi thay đổi thực hành trong bệnh viện để giảm thiểu lây lan bệnh do vi khuẩn. Thứ hai, ông phát hiện ra rằng có thể dùng dạng vi khuẩn đã làm yếu để chủng ngừa chống lại dạng vi khuẩn độc. Thứ ba, Pasteur thấy rằng bệnh dại lây nhiễm nhờ một tác nhân rất nhỏ không nhìn thấy dưới kính hiển vi, nhờ đó mở ra thế giới các virus. Kết quả là ông đã triển khai được kỹ thuật tiêm vaccin cho chó chống bệnh dại và điều trị người bị chó dại cắn. Và thứ tư, Pasteur đã phát triển phương pháp "tiệt trùng kiểu Pasteur", một quy trình dùng sức nóng để tiêu diệt vi khuẩn có hại trong các loại thực phẩm dễ thiu thối mà không làm hỏng thực phẩm.

Nghiên cứu sự lên men và sự tự sinh
Theo yêu cầu của một nhà sản xuất rượu tên là Bigo ở miền bắc nước Pháp, Pasteur bắt đầu nghiên cứu xem tại sao rượu lại bị nhiễm những chất ngoài ý muốn trong quá trình lên men. Ông đã sớm chứng minh được rằng mỗi giai đoạn của quá trình lên men đều liên quan với sự tồn tại của một loại vi sinh vật đặc thù hay con men - một sinh vật mà người ta có thể nghiên cứu bằng cách nuôi cấy trong một môi trường vô trùng thích hợp. Nhận định sáng suốt này là cơ sở của ngành vi sinh .
Pasteur đã giáng một đòn quyết định vào thuyết tự sinh, học thuyết đã từng tồn tại trong 20 thế kỷ cho rằng cuộc sống có thể tự này sinh từ những chất liệu hữu cơ. Ông cũng phát triển lý thuyết mầm bệnh. Cùng thời gian này, ông khám phá ra sự tồn tại của sự sống trong điều kiện không có oxy: "Lên men là hậu quả của sự sống không có không khí". Khám phá về sự sống yếm khí đã mở ra con đường nghiên cứu những mầm bệnh gây nhiễm trùng huyết và bệnh hoại thư, cùng với nhiều bệnh nhiễm trùng khác. Nhờ Pasteur, người ta có thể phát minh ra những kỹ thuật tiêu diệt vi khuẩn và kiểm soát ô nhiễm.

Kỹ thuật "tiệt trùng kiểu Pasteur"
Hoàng đế Napoleon III đã đề nghị Pasteur nghiên cứu những bệnh ảnh hưởng đến rượu đang gây thiệt hại cho ngành sản xuất rượu. Nǎm 1864, Pasteur tới khu vườn nho ở Arbois để nghiên cứu vấn đề này. Ông đã chứng minh rằng bệnh của rượu là do vi sinh vật gây ra, những vi sinh vật này có thể bị tiêu diệt bằng cách đun nóng rượu đến nhiệt độ 55oC trong vài phút. áp dụng cho bia và sữa, cách xử lý này, được đặt tên là "tiệt trùng kiểu Pasteur" đã nhanh chóng thông dụng trên khắp thế giới.

Nghiên cứu bệnh nhiễm trùng ở người và động vật .
Nǎm 1865, Pasteur bắt đầu nghiên cứu những bệnh của tằm đang làm lụn bại ngành tằm tơ ở Pháp. Ông đã tìm ra tác nhân gây bệnh và cách lan truyền những tác nhân này - theo qui luật lây và di truyền - và cách ngǎn ngừa bệnh. Bổ sung thêm nghiên cứu về sự lên men, giờ đây ông có thể khẳng định mỗi bệnh là do một vi khuẩn đặc trưng gây ra và những vi khuẩn này là những yếu tố ngoại lai.
Với hiểu biết này, Pasteur có thể đặt ra những qui tắc cơ bản của tiệt trùng. Ngǎn ngừa được lây nhiễm, phương pháp tiệt trùng của ông đã cách mạng hóa ngành ngoại khoa và sản khoa . Từ nǎm 1877-1887, Pasteur vận dụng cơ sở vi sinh học vào cuộc chiến chống các bệnh nhiễm trùng. Ông tiếp tục tìm ra ba vi khuẩn gây bệnh cho người: tụ cầu, liên cầu và phế cầu.

Điều trị và phòng ngừa bệnh dại
Louis Pasteur đã tìm ra phương pháp làm yếu các vi sinh vật độc là cơ sở cho chủng ngừa. Ông đã phát triển các vaccin chống bệnh tả ở gà, bệnh than và bệnh lợn đóng dấu. Sau khi nắm vững phương pháp chủng ngừa, ông đã áp dụng khái niệm này vào bệnh dại. Ngày 6/7/1885, lần đầu tiên Pasteur đã thử phương pháp điều trị bệnh dại của mình cho người: bé Joseph Meister đã được cứu sống . Sự thành công đã gây tiếng vang lớn , mọi người thán phục và tin tưởng Ông . Từ khắp nơi , những người bị chó dại cắn đều được đưa tới nhờ Ông chữa trị , Ông tận tình săn sóc và chữa trị cho tất cả bệnh nhân .
Tuy nhiên một việc đau lòng cũng đã xảy ra . Một hôm ông rất khó nghĩ về trường hợp bệnh tình của một em bé , em đã bị chó dại cắn hơn ba mươi ngày . Đã trễ rồi , chích thuốc sẽ không còn hiệu quả , em bé sẽ chết và tác động đến các bệnh nhân khác , họ sẽ nghi ngờ và không tin tưởng vào sự chữa trị nữa . Ông từ chối không muốn chữa trị cho em bé , nhưng cha mẹ của em năn nỉ mãi , Ông động lòng và nhận chữa trị cho em . Trong gần một tháng điều trị , lúc thuyên giảm lúc trở nặng . Sau cùng em không qua khỏi và ông đã òa khóc khi em mất .
Nhiều kẻ ghen ghét Ông , đã vin vào cái chết của em bé để chỉ trích phương pháp chữa bệnh chó dại cắn của Ông , thậm chí còn có người buộc tội Ông làm gây bệnh chó dại cho người . Mười lăm năm sau , cha của em bé đã viết : "... Tôi chưa từng thấy một danh nhân nào chỉ vì lòng nhân đạo mà chịu hy sinh hàng chục năm nghiên cứu , danh vọng của mình để rước lấy một sự thất bại đau đớn đã biết trước ..." .

Thành lập Viện Pasteur
Ngày 1/3/1886, Pasteur trình bày kết quả phương pháp điều trị bệnh dại của ông trước Viện Hàn lâm Khoa học Pháp và kêu gọi thành lập một trung tâm vaccin dại. Đông đảo dân chúng và cộng đồng quốc tế đã vận động tài trợ cho việc xây dựng Viện Pasteur, một viện nghiên cứu tư đầu tiên được Tổng thống pháp Jules Gresvy công nhận nǎm 1887 và được người kế nhiệm ông là Sadi Carnot khánh thành nǎm 1888. Theo mong ước của Pasteur, Viện được xây dựng thành một cơ sở điều trị bệnh dại, một trung tâm nghiên cứu các bệnh nhiễm trùng và một trung tâm giảng dạy. Nhà khoa học 66 tuổi đã dành trọn 7 nǎm cuối cùng của cuộc đời cho Viện nghiên cứu vẫn mang tên ông. Trong thời gian này, Pasteur cũng được hưởng niềm vui của danh tiếng và được tôn vinh khắp thế giới bằng những huân huy chương có uy tín.
Sự nghiệp của ông được tiếp tục và được mở rộng trên kháp thế giới nhờ lớp lớp học trò. Ông đặc biệt coi trọng việc phổ biến kiến thức và ứng dụng nghiên cứu. Trong cuộc đời của một nhà khoa học, lý thuyết và phương pháp Pasteur đã được đưa vào thực tiễn vượt xa khỏi biên giời nưới Pháp.
Nhận thức đầy đủ tầm quan trọng quốc tế của sự nghiệp ông, các học trò của Pasteur đã đi khắp thế giới tới bất cứ nơi nào cần đến sự giúp đỡ của họ. Nǎm 1881, Viện Pasteur ngoài nước Pháp đầu tiên được thành lập ở Sài gòn (Thành phố Hồ Chí Minh), mở đầu cho mạng lưới các Viện Pasteur quốc tế.
Vì ông đã làm thay đổi vĩnh viễn thế giới, tổ quốc quê hương ông và cả thế giới luôn coi ông là một ân nhân của nhân loại.

Thứ Ba, 3 tháng 9, 2013

Thần chết là ai?

Cùng tìm hiểu về một trong những biểu tượng văn hóa lâu đời nhất trong lịch sử nhân loại

“Taxes and death”, một câu ngạn ngữ nổi tiếng đã khẳng định rằng, không có gì là chắc chắn trên cõi đời này, trừ 2 thứ: đó là thuế và cái chết. Chúng ta luôn hiểu rõ về thuế, chúng ta biết chúng ta sẽ bị xẻo bớt bao nhiêu phần trăm trong số chúng ta kiếm được. Nhưng còn cái chết? Liệu nó có được cụ thể như thế? Chúng ta sẽ cảm thấy thế nào? Chúng ta sẽ thấy gì? Đi đến đâu? Và chúng ta sẽ làm gì?

Có lẽ chỉ một người trả lời được tất cả những câu hỏi này – Thần chết. Tấm áo choàng phủ kín bộ mặt lạnh lẽo, chiếc lưỡi hái đã quá quen thuộc với việc lấy đi sinh mạng con người, thần chết tìm đến tất cả mọi người, cùng chiếc đồng hồ cát trên tay. Thần chết đứng đó, lặng lẽ chờ đợi cho đến khi hạt cát cuối cùng rơi xuống, và đó cũng là lúc lưỡi hái của Ngài lấy đi linh hồn của bạn.


Đó chính là “công việc” của Thần chết – buộc con người phải đối diện với cái chết. Nhưng tại sao con người luôn phác họa thần chết một cách lạnh lùng, hiểm độc đến vậy? Tại sao đó không phải là một người bạn, một người dẫn đường, đưa những linh hồn đi đúng hướng? Và tại sao, đó nhất định phải là một người đàn ông? Hãy cùng chúng tôi tìm kiếm câu trả lời qua bài viết dưới đây.

Chúng ta không bất tử

Để đối mặt với tử thần, bạn cần đối diện với bản thân cái chết. Bạn phải chấp nhận nó. Phần lớn các nền văn hóa và tôn giáo đều cho rằng, con người vốn dĩ là những sinh vật bất tử, nhưng sau đó đã trượt ngã khỏi sự sáng tạo hoàn hảo của Đấng tối cao. Adam và Eva là những ví dụ điển hình. Theo Kinh Cựu ước, Chúa đã tạo ra Adam và Eva để chăm lo và phát triển thế giới mà ngài đã sinh ra. Người đàn ông và đàn bà đầu tiên của thế giới sống ở một nơi hoàn hảo – Vườn Địa đàng. Chúa yêu cầu Adam chăm lo cho khu vườn, và được phép hái lượm bất cứ thứ cây cỏ nào, trừ trái táo cấm. Không kiềm chế được trước sự dụ dỗ của Satan, Adam và Eva đã vi phạm điều này, và bị Chúa trừng phạt bằng cách để họ nếm trải cái chết, về cả thể xác lẫn tinh thần.


Trong những tôn giáo khác, loài người không hề bất tử, nhưng họ luôn tìm kiếm cách thức để trở nên bất tử, và tất nhiên, họ luôn thất bại. Bạn có thể dễ dàng nhận thấy điều này trong rất nhiều câu chuyện cổ xưa, trong đó có truyền thuyết về Gilgamesh. Gilgamesh vốn là con trai của một nữ thần và một vị vua, tuy nhiên, anh cũng chỉ là một người đàn ông bình thường. Sau khi chứng kiến cái chết của Enkidu, bạn thân nhất của mình, anh quyết định bắt đầu hành trình tìm kiếm sự bất tử. Hành trình này đưa anh đến với Utnapishtim, một con người đã được các vị thần ban phước để trở nên bất tử. Utnapishtim hứa sẽ cho Gilgamesh sự bất tử nếu anh có thể thức trắng 1 tuần. Gilgamesh sau đó tất nhiên không thể thực hiện nổi nhiệm vụ này, nhưng Utnapishtim vẫn trao cho anh một loại cây có khả năng làm chủ nhân của nó mãi tươi trẻ. Trên con đường trở về, một con rắn đã rình mò ăn mất loài cây này và nuốt chửng luôn hi vọng của Gilgamesh.

Trong câu chuyện trên, Gilgamesh đã trở về nhà và chấp nhận cuộc đời không-thể-bất-tử của mình. Anh sống hạnh phúc cho đến cuối đời. Tuy nhiên, loài người không phải ai cũng vậy. Cái chết như một bóng đêm bao trùm lên mọi chi tiết trong cuộc đời chúng ta. Điều gì sẽ xảy ra khi ta chết, và điều gì sau đó nữa? Để hợp lý hóa cái chết, chúng ta cần hình tượng hóa nó, trao cho nó một hình dạng mà chúng ta có thể dễ dàng nhận ra. Nếu bạn nhìn vào cái chết và nhận ra một gương mặt quen thuộc, bạn có thể hiểu nó. Nếu bạn nhìn vào cái chết và thấy một gương mặt đẹp đẽ, thân thiện, bạn có thể dễ dàng gạt bỏ mọi sự sợ hãi và chấp nhận nó.

Thần chết nguyên thủy

Nếu bạn định nhân cách hóa cái chết, tại sao không làm nó trở nên dễ gần và thân thiện? Đó chính là cách người Hy Lạp tiếp cận cái chết, khi họ tạo ra thần chết Thanatos. Thanatos là người anh em song sinh của Hypnos, vị thần của giấc ngủ, và cả 2 đều được phác họa như là những chàng trai trẻ tuổi và lịch lãm. Trong một số dị bản, Thanatos thậm chí còn xuất hiện cùng với đôi cánh – biểu tượng của những thiên thần. Nhiệm vụ của ngài là đồng hành cùng những vong hồn tới chỗ Hades, địa ngục của người Hy Lạp. Tại đó, Thanatos sẽ đưa những linh hồn tới chỗ Charon, người lái đò trên sông Styx. Rõ ràng, trong phiên bản này, thần chết không hề lạnh lẽo, đáng sợ, mà trái lại còn rất hấp dẫn và thân thiện.


Cũng có những phiên bản nữ của thần chết. Trong truyền thuyết của người Na Uy, các Valkyries là những phụ nữ trẻ trung xinh đẹp phục vụ dưới trướng thần Odin, vừa làm nhiệm vụ truyền tin, vừa làm nhiệm vụ hộ tống các linh hồn chết trận về với thiên đường. “Valkyries” có nghĩa là “người lựa chọn”. Trong suốt trận chiến, họ sẽ cưỡi trên lưng những con ngựa có cánh, bay khắp chiến trường và chọn ra những chiến binh dũng cảm nhất. Linh hồn của họ sẽ được đưa đến Valhalla, điện của thần Odin. Sau khi đã đến được thế giới bên kia, họ sẽ được tham gia vào trận chiến Ragnarok, trận đại chiến cuối cùng đánh dấu sự chấm dứt của thế giới.

Thiên thần chết chóc và Đại dịch đen

Khái niệm thần chết, về mặt học thuật, được ra đời ở châu Âu vào thời kỳ Trung cổ. Nhưng một trận đại dịch xuất hiện vào cuối thế kỷ 14 đã vĩnh viễn thay đổi cách nhìn của con người về khái niệm cái chết. Là một trong những trận đại dịch lớn nhất trong lịch sử nhân loại, dịch hạch đã cướp đi sinh mạng của 25 triệu người trong đợt bùng phát khởi đầu, và thêm nhiều triệu người tiếp tục ra đi trong nhiều thế kỷ sau đó. Sự sợ hãi – trước cái chết, trước sự giận dữ của Đấng tối cao, trước sự đau đớn và những mảng đen khủng khiếp trên da người bệnh trong giai đoạn cuối, đã trùm bóng đêm lên khắp châu Âu trong suốt một thời gian dài. Chết, chết và chết, đó là tất cả những gì gợi cảm hứng cho các sáng tác nghệ thuật.


Vì vậy, cũng không có gì quá bất ngờ khi cái chết bắt đầu xuất hiện trong nghệ thuật như là những bộ xương trắng. Vũ khí của Thần chết dần được cải dạng, từ ngọn giáo cho đến chiếc nỏ, và cuối cùng là chiếc lưỡi hái rất phổ biến ngày nay. Rất nhiều bức họa phác thảo cảnh Thần chết vung lưỡi hái lên và nhanh chóng tiễn đưa nạn nhân xuống cõi âm. Cũng có nhiều tác phẩm nghệ thuật sử dụng hình ảnh một người phụ nữ trẻ đứng kế bên thần chết, như là một biểu tượng cho cây cầu nối giữa sự sống và cái chết.

Biểu tượng thần chết

Mọi chi tiết được phác họa về thần chết đều là một biểu tượng, chúng đều được dựng lên với một ý nghĩa nào đó. Từ những đồ vật Ngài mang theo, bộ quần áo Ngài mặc đều cho chúng ta biết về bản chất và ý định của Ngài.

Đầu lâu và bộ xương: Khi đại dịch quét qua châu Âu, những xác chết ngổn ngang khắp hè phố không phải là thứ gì đó quá xa lạ. Chết chóc đã trở nên quá đỗi thường xuyên đến mức nó đã hằn sâu vào mọi sáng tác thời bấy giờ. Xác chết dần mục rữa, bộ xương trắng là thứ duy nhất còn sót lại sau khi vi khuẩn và ròi bọ đã hoàn tất công việc của mình. Đó cũng chính là nỗi sợ hãi khủng khiếp nhất của con người.



Áo choàng đen: Màu đen từ lâu đã là biểu tượng của chết chóc và tang tóc. Nhưng màu đen cũng là màu của quỷ dữ. Màu đen cũng góp phần phủ thêm vẻ huyền bí và lạnh lẽo lên sự hiện diện của thần chết. Những thứ chúng ta không thể thấy cũng đáng sợ như những thứ chúng ta có thể thấy, vậy nên, Thần chết đứng đó, ẩn mình sau lớp áo choàng để trùm sự sợ hãi lên mỗi con người chúng ta.

Lưỡi hái: Trong những phiên bản đầu tiên, vũ khí của Thần chết là khá đa dạng: cung tên, giáo mác và nỏ - đó là những thứ Ngài sử dụng để lấy đi linh hồn của nạn nhân. Sau đó, lưỡi hái ra đời và trở nên phổ biến hơn với hình ảnh Thần chết. Đó là thứ công cụ để gặt hái vào mỗi vụ mùa, và hình ảnh này dường như gắn bó với những nền văn hóa nông nghiệp thời kỳ sơ khai, nó đại diện cho cái chết luôn đến vào mỗi năm. Chúng ta, những con người nhỏ bé, gặt hái thóc, lúa, hoa quả, còn Thần chết, ngài “gặt” linh hồn để đưa họ đến thế giới bên kia.

Đồng hồ cát: Một biểu tượng về thời gian và sự hữu hạn của nó. Thần chết sở hữu chiếc đồng hồ thời gian và kiên nhẫn chờ đợi từng hạt rơi xuống. Không có cách nào đảo ngược quá trình này, và sẽ đến lúc chúng ta cầu xin Đấng tối cao chỉ thêm một khoảnh khắc nhỏ nhoi nữa để tận hưởng cuộc sống.

Hình ảnh này có sức lan tỏa mạnh đến mức, thậm chí nó còn xuất hiện trong nhiều văn bản tôn giáo chính thống. Kinh Tân Ước là ví dụ điển hình nhất. Trong Kinh Tân Ước 6: 1-8, bốn người kỵ sĩ xuất hiện để dẫn đường cho những tai họa nhằm chấm dứt thế giới, đó là Bệnh dịch, Chiến tranh, Nạn đói và Cái chết. Trong bốn người này, Thần chết dường như có sức ảnh hưởng rõ rệt nhất. Con ngựa Ngài cưỡi đại diện cho tai ương và chết chóc lan tỏa theo mỗi bước đi của nó. Phần lớn các mô tả khá giống với những gì người ta từng biết: Áo choàng đen phủ lên bộ xương trắng, lưỡi hái luôn trong tư thế sẵn sàng cho việc gieo rắc chết chóc và sự sợ hãi.

Kết

Cho đến nay, hình ảnh Thần chết đã bị cải biên đi khá nhiều nhằm phục vụ cho mục đích truyền thông và giải trí. Dù xuất hiện theo cách nào đi nữa, đáng sợ hay hài hước, dù là phụ nữ hay đàn ông, Thần chết vẫn luôn là một trong những biểu tượng văn hóa lâu đời nhất. Truyền thuyết có thể bị phai mờ, nhưng Thần chết vẫn luôn đứng đó, kiên nhẫn chờ đợi trong đêm đen, chờ đợi khoảnh khắc cuối cùng của mỗi người trong số chúng ta.

Tham khảo: Howstuffworks

Thứ Năm, 4 tháng 7, 2013

Những người độc ác và tàn bạo nhất lịch sử nhân loại

Không chỉ tàn sát mạng người dã man, họ còn gây nên hậu quả nghiêm trọng cho cả xã hội.

Trong lịch sử loài người, có rất nhiều những kẻ tàn bạo, đáng sợ. Nhưng trong bài viết này, chúng tôi sẽ đưa ra một danh sách tổng hợp những người đàn ông ác nhất trong lịch sử. Ác ở đây không chỉ bao gồm việc tàn sát mà còn dựa trên những tác động xấu, sự tàn bạo mà họ đã gây ra cho cả xã hội. Sẽ có những ý kiến trái chiều vì những nhân vật này hoàn toàn cũng có đóng góp của họ. Nhưng về mặt khách quan, họ đã gây ra những hậu quả xấu trên quy mô lớn.

10. Thiền vu Hung Nô Attila








Cái tên đầu tiên trong danh sách đến từ xứ sở Hung Nô hoang dại. Attila hay còn được người châu Âu là Attila Rợ Hung, mang biệt hiệu "Ngọn roi của Thượng đế" hoặc "tai họa của trời", là Thiền Vu của Đế quốc Hung Nô từ năm 434 đến năm 453. Đối với Hung Nô thì ông là một người niềm tự hào, ông đã lãnh đại đế chế Hunnic trải dài từ Đức đến sông Ural và sông Danube tới biển Baltic. Nhưng với nền văn minh Tây Âu ông hiện thân là một kẻ tham lam và tàn bạo bậc nhất.

Thứ Hai, 10 tháng 6, 2013

10 Pharaoh vĩ đại nhất trong lịch sử

Tại Ai Cập, các Pharaoh là hiện thân của quyền lực tối cao trên mặt đất. Họ được biết đến với sự giàu có, hùng mạnh và cuộc đời nhiều bí ẩn.



Thứ Ba, 16 tháng 4, 2013

Thành thành phố Tam Kỳ

Theo sử liệu, Tam Kỳ ngày nay là cùng đất thuộc huyện Hà Đông, phủ Thăng Hoa của đạo Thừa Tuyên – Quảng Nam, được hình thành từ năm 1471 dưới thời vua Lê Thánh Tông. Đến năm 1906, đời vua Thành Thái, huyện Hà Đông được nâng lên thành phủ Hà Đông và sau đó đổi thành phủ Tam Kỳ.


Từ một phủ lỵ năm 1906 đến năm 1997 trở thành Thị xã Tỉnh lỵ và Thành phố Tỉnh lỵ Quảng Nam là thời gian tròn một thế kỷ.

Trải qua chiều dài lịch sử, qua nhiều lần điều chỉnh địa giới hành chính và có những tên gọi khác nhau: Phủ Tam Kỳ, huyện Tam Kỳ ( huyện Bắc Tam Kỳ, Nam Tam Kỳ và Thị xã Tam Kỳ). Mỗi lần thay đổi tên gọi đơn vị hành chính là có gắng với sự thay đổi, điều chỉnh quy mô về diện tích đất đai. Tam Kỳ là một vùng đất giàu truyền thống yêu nước và cách mạng, con người Tam Kỳ hiếu học, cần cù, chịu thương, chịu khó và cầu tiến.

Thành phố Tam Kỳ được thành lập tại Nghị định số 113 ngày 29/9/2006 của Chính phủ, bao gồm 9 phường, 4 xã của Thị xã Tam Kỳ, diện tích gần 93Km2, dân số gần 12 vạn người. Thành phố Tam Kỳ là một trung tâm hành chính, văn hoá – khoa học kỹ thuật của tỉnh Quảng Nam, nằm ở trung độ của cả nước và vùng trọng điểm kinh tế ven biển miền Trung. Thành phố Tam Kỳ ra đời đánh dấu một bước phát triển mới về chất, khẳng định sự trưởng thành vượt bậc của vùng đất và con người Hà Đông xưa, đang mở ra một thời kỳ phát triển mới đầy triển vọng của thành phố tương lai.


Trong thời gian đến, thành phố Tam Kỳ tập trung phát huy lợi thế tiềm năng, đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế theo cơ cấu dịch vụ - công nghiệp – nông nghiệp. Phát triển văn hoá – xã hội ngang tầm với vị thế trung tâm kinh tế - chính trị - văn hoá của một tỉnh giàu truyền thống văn hoá và đấu tranh cách mạng, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân. Tăng cường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đô thị và nông thôn, phấn đấu xây dựng Thành phố đạt các tiêu chí đô thị loại II, tập trung xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo điều hành thống nhất, đồng bộ, có hiệu quả, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường an ninh - quốc phòng, đảm bảo trật tự an toàn xã hội

Thứ Sáu, 15 tháng 3, 2013

Giành lại Len Đao

Một tháng sau, bộ đội Việt Nam đi trên tàu chiến hải quân, được trang bị súng 12ly7, DKZ… quyết giành lại Len Đao và Gạc Ma



Đảo Len Đao (ảnh: Hoangsa.org)

Trở lại với sự biến ngày 14/3/1988. Trước đó, ngày 11/3, nhiều chiến sĩ Trung đoàn E83 được lệnh khẩn lên tàu. Trung đội trưởng Đinh Xuân Toại (Đơn vị C7 – D3 – E83) lẽ ra cũng lên tàu HQ-604, nhưng đến giờ cuối, anh cùng một số chiến sĩ khác được điều chuyển sang tàu không số nhỏ hơn, chuyển hướng đến đảo Tốc Tan.

Khi đang xây dựng mốc chủ quyền và nhà trên đảo này, các anh nghe tin đồng đội bên Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao bị tấn công. Cả ngày đó, cùng với lực lượng từ đảo Sinh Tồn và cụm đảo xung quanh đó, các anh đã cố gắng tiếp cận Gạc Ma tiếp cứu đồng đội, nhưng bị tàu Trung Quốc ngăn chặn nên không thể vào được.

Ngày hôm sau, khi đã đưa được những chiến sĩ thương vong về Sinh Tồn, đơn vị anh Toại được đưa về đất liền, chuẩn bị lực lượng chiến đấu.

Một tháng sau, các anh đi trên tàu chiến hải quân, được trang bị súng 12ly7, DKZ… quay lại quyết giành lại Len Đao và Gạc Ma.

“Chúng tôi có 35 lính công binh và 7 thủy binh, được Tư lệnh Vùng 4 Hải quân trực tiếp chỉ huy, ra đi với quyết tâm giành lại đảo. Trước khi đi, chúng tôi đã được chuẩn bị tư tưởng có thể xảy ra chiến sự, lực lượng của ta mỏng, trong khi Trung Quốc tàu lớn, quân đông, và họ cũng quyết liệt giành giật đảo của ta. Nhưng chúng tôi vẫn đi, quyết tử”. Anh Toại kể lại.

Từ 2h sáng, các anh bí mật cho xuồng nhỏ vào thăm dò, rồi cho người tiếp cận Len Đao và Gạc Ma. Tuy nhiên chỉ có thể cắm cờ lên đảo Len Đao, tại Gạc Ma, phía Trung Quốc đã xây nhà cấp tốc và giăng lưới điện xung quanh đảo. Các chiến sĩ không tiếp cận được.



Buổi sáng ra, tình huống trước lặp lại: Trung Quốc cho tàu áp sát uy hiếp, lần này nhiều hơn: 7 tàu chiến Trung Quốc và vô số xuồng nhỏ vây quanh uy hiếp. Hải quân Việt Nam vẫn kiên quyết bám đảo dù lực lượng của Việt Nam ít hơn rất nhiều. Hai bên liên tiếp gọi loa sang nhau khẳng định chủ quyền.

“Lúc đó không khí căng như dây đàn, cả hai bên cùng chĩa súng vào nhau, sẵn sàng nhả đạn. Chỉ huy hai bên gọi loa sang nhau nói rất nhiều bằng tiếng Trung Quốc, tôi không hiểu lắm. Nhưng sau được nghe lại là phía Trung Quốc nói đây là đảo thuộc chủ quyền của họ, yêu cầu Việt Nam tránh xa. Phía mình cũng nói lại đây là chủ quyền của nước Việt Nam và chúng tôi đang thực hiện của chủ quyền của Việt Nam. Hai bên cứ trao đổi một hồi, chúng tôi sẵn sàng chiến đấu. Được một hồi, 7 máy bay chiến đấu của Việt Nam bay từ đất liền ra quần đảo, phía tàu Trung Quốc tản ra và chúng tôi được yên ổn làm việc. Rất may hôm đó không xảy ra xung đột, không bên nào nổ súng”, anh Toại cho biết.

Trước đó, các anh đã được huấn luyện xây nhà cấp tốc trong đất liền. Một ngôi nhà kiên cố trung bình phải xây trong vài tháng, các anh được huấn luyện xây hoàn thiện trong hai tháng. Nhưng khi làm tại Len Đao, các anh phải làm nhanh hơn nữa, chỉ trong mười mấy ngày đã xây xong ngôi nhà tại đảo.

Sau khi xây xong nhà tại Len Đao, nhóm anh Toại tiếp tục di chuyển xây nhà tại đảo Đá Nam rồi gặp bão. Tàu của các anh bị xô dạt, chìm nổi trong bão 25 ngày mới quay lại được đất liền. Toàn bộ cán bộ, chiến sĩ trên tàu được Ban chỉ huy Vùng 4 Hải quân khen thưởng.

Từ 1988 đến nay, Trung Quốc chiếm giữ Gạc Ma. Việt Nam bảo vệ thành công Cô Lin và Len Đao.

Hiện nay trên quần đảo Trường Sa có mặt lực lượng của 4 nước 5 bên và yêu sách về chủ quyền có 5 nước 6 bên, cụ thể:

+ Trung Quốc: Đánh chiếm 7 đảo đá: Chữ Thập, Châu Viên, Gạc Ma, Xu Bi, Huy Gơ, Ga Ven năm 1988, và tháng 1/1995 đánh chiếm bãi đá Vành Khăn.

+ Đài Loan: Chiếm đóng đảo Ba Bình năm 1956, cắm mốc bãi cạn Bàn Than năm 2005.

+ Philipin: Chiếm đóng 9 đảo: Song Tử Đông, Thị Tứ, Đảo Dừa, Loại Ta, Loại Ta Tây, Bình Nguyên, Vĩnh Viễn, Công Do, Bãi cạn Cỏ Mây.

+Malayxia: Chiếm đóng 7 đảo: Lusia, Sắc Lốt, Hoa Lau, Kiệu Ngựa, Kỳ Vân, Én Ca, Thám Hiểm.

+ Bruney: Không có đảo nào song vẫn yêu sách chủ quyền.

+ Việt Nam: Thực hiện chủ quyền và đóng giữ 21 đảo: gồm 9 đảo nổi, 12 đảo đá ngầm với 33 điểm đóng quân (9 đảo nổi: Đảo Trường Sa, Trường Sa Đông, An Bang, Sinh Tồn Đông, Phan Vinh, Song Tử Tây, Nam Yết, Sinh Tồn, Sơn Ca. 12 đảo đá ngầm: Đá Nam, Đá Lớn, Đá Lát, Đá Đông, Đá Tây, Đá Thị, Thuyền Chài, Cô Lin, Len Đao, Tiên Nữ, Núi Le, Tốc Tan).

Vài thông tin về cụm đảo Cô Lin và Len Đao:

Đảo đá Cô Lin nằm cách đảo Sinh Tồn 9 hải lý về phía Tây Nam, cách bãi đá Gạc Ma khoảng 1,9 hải lý về phía Tây Bắc và cách bãi đá Len Đao 6,8 hải lý về phía Tây – Tây Nam. Đảo Cô Lin có hình dạng tam giác hơi cong, mỗi cạnh dài 1 hải lý. Khi thủy triều lên đảo chìm ngập trong nước, khi thủy triều xuống đảo chỉ lộ ra vài viên đá. Ở đảo Cô Lin và khu vực đảo Trường Sa có nhiều loài chim sinh sống, đặc biệt là cò và chim di cư theo mùa. Xung quanh đảo có thềm san hô có nhiều loài cá quý như chim, thu, ngừ và nhiều loài hải sâm có giá trị dinh dưỡng cao. Hiện nay lực lượng hải quân đã xây dựng ở đây một nhà lâu bền và một nhà cao chân, cách nhau khoảng 100 met. Với vị trí tiền tiêu, Cô Lin phối hợp với các đảo khác của quần đảo Trường Sa tạo thành thế trận liên hoàn, vững chắc; là lá chắn vòng ngoài bảo vệ biển, đảo; bảo vệ hướng phía Đông của các tỉnh Nam Trung Bộ, Nam Bộ.

Đảo Len Đao cách Cô Lin 6,4 hải lý về phía Đông. Cách đảo Sinh Tồn 6,5 hải lý về phía Đông Nam. Bề mặt Len Đao tương đối bằng phẳng, khi nước thủy triều xuống bãi san hô nổi lên 0,5 met, khi triều lên nước ngập 1,8 met. Bãi sản hô trên đảo lấy tâm là nhà lâu bền cứ xoay một vòng là hết một năm. Vào tháng 3, tháng 4, gió mùa Đông Bắc bãi cát dịch chuyển về phía Tây Nam của đảo.

Trích cuốn “Những điều cần biết về hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Khu vực thềm lục địa phía Nam (DK1)” do Cục chính trị, Bộ Tư lệnh Hải quân xuất bản năm 2011.

Chủ Nhật, 17 tháng 2, 2013

Nhìn lại chiến tranh biên giới Việt - Trung 1979 TQ nên rút ra bài học

Vào ngày 17.2.1979 Trung Quốc bất ngờ tung hơn 60 vạn quân nổ súng xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía bắc, nhưng đã phải rút quân sau hơn một tháng gặp sự kháng cự mãnh liệt của quân và dân ta, chịu nhiều tổn thất nặng nề.


Tuy vậy cuộc chiến tranh xâm lược này cũng mở màn cho cuộc xung đột vũ trang tại biên giới giữa VN và Trung Quốc (TQ) kéo dài suốt 10 năm sau đó. Theo thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược - Bộ Công an, với độ lùi về thời gian, việc nhìn nhận lại cuộc chiến tranh này là hoàn toàn cần thiết.

Kể từ sau khi VN và TQ bình thường hóa quan hệ (1991), hai bên dường như đều không muốn nhắc lại cuộc chiến này. Từ hơn 30 năm qua, cuộc chiến chống quân xâm lược Trung Quốc gần như không được nhắc tới. Theo ông tại sao cuộc chiến lại bị rơi vào lãng quên như vậy?

Để trả lời câu hỏi này có lẽ cần cả một hội thảo khoa học. Tôi chỉ xin lưu ý như sau, vào những năm kỷ niệm chẵn 10, 15... hay gần đây nhất là 30 năm sau cuộc chiến tranh chống TQ xâm lược (2009), báo chí, truyền hình của VN gần như không đưa tin gì về sự kiện này. Đây là một sự thiếu sót lớn trên góc độ Nhà nước. Hơn thế nữa, đó là một sự xúc phạm đến linh hồn của những đồng bào, chiến sĩ đã bỏ mình để bảo vệ Tổ quốc trong cuộc chiến tháng 2.1979 và gần mười năm sau đó. Họ nằm dưới mộ có yên không? Gia đình vợ con bạn bè và những người thân thích của họ sẽ nghĩ gì về chuyện này? Đã có ý kiến cho rằng nhắc đến những chuyện này cũng có nghĩa là kích động chủ nghĩa dân tộc. Tôi có thể khẳng định rằng nói như vậy là ngụy biện.

Trong khi chúng ta im lặng thì những dịp đó chúng tôi đã thống kê hệ thống phát thanh, truyền hình báo chí của TQ tung ra trung bình từ 600-800 tin, bài với những cái tít gần như có nội dung giống nhau về cái mà họ gọi là “cuộc chiến tranh đánh trả tự vệ trước VN”. Có thông tin cho rằng hiện tại có tới trên 90% người dân TQ vẫn quan niệm rằng năm 1979 Quân đội VN đã vượt biên giới sang tấn công TQ và bắt buộc TQ phải tự vệ đánh trả. Từ hàng chục năm nay, hệ thống tuyên truyền của TQ đã nhồi nhét vào đầu người dân TQ rằng cuộc chiến 1979 chỉ là cuộc phản công trước sự xâm lược của VN.

Theo tôi nghĩ, trong tuyên truyền đối nội và đối ngoại, cả ở kênh nhà nước, nhân dân và trên truyền thông, chúng ta phải làm rõ và góp phần làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ bản chất của cuộc chiến tranh Việt - Trung 1979. Đồng thời góp phần làm cho hơn 1,3 tỉ người TQ biết được sự thật rằng vào ngày đó hơn 60 vạn quân TQ đã vượt biên giới xâm lược VN. Việc chúng ta im lặng hàng chục năm qua, theo tôi là không đúng. Việc nói ra cũng không liên quan gì chuyện kích động chủ nghĩa dân tộc. Hãy thử so sánh chuyện đó với việc TQ tung ra hàng nghìn bài báo xuyên tạc lịch sử từ hàng chục năm qua.

Với độ lùi về thời gian, theo ông chúng ta có thể rút ra những điều gì từ cuộc chiến tranh này? Những điều đó có ý nghĩa thế nào trong bối cảnh hiện tại ?

Theo tôi, khoảng thời gian 34 năm đã là khá đủ cho chúng ta nhận thức lại những vấn đề xung quanh cuộc chiến 1979. Thế nhưng đến giờ phút này tôi có cảm giác không phải lúc nào chúng ta cũng có được sự nhận thức thống nhất, nhất quán từ trên xuống dưới.

Vấn đề thứ nhất, phải xác định rõ về mặt khoa học, cuộc chiến 1979 là cuộc chiến tranh chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc. Đây là vấn đề phải nhận thức rõ từ cấp cao nhất. Sự nhận thức ấy cũng phải được thống nhất trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Đây là chuyện không được phép mơ hồ.

Không chỉ nhận thức mà Nhà nước có trách nhiệm đưa câu chuyện này vào sách giáo khoa. Thực tế cho thấy phần lớn học sinh tiểu học, trung học và thậm chí đa số trong 1,4 triệu sinh viên hầu như không biết gì về cuộc chiến tranh này. Nếu để tình trạng này kéo dài, trách nhiệm thuộc về Nhà nước. Chắc chắn chúng ta sẽ không tránh được sự phê phán của thế hệ sau này. Hàng vạn người con ưu tú của chúng ta đã bỏ mình để bảo vệ từng tấc đất biên giới phía bắc của Tổ quốc, tại sao không có một dòng nào nhắc đến họ? Bây giờ đã quá muộn. Nhưng không thể để muộn hơn được. Theo quan điểm của tôi, Nhà nước phải yêu cầu đưa phần này vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Chúng ta không thể mơ hồ được, không thể lờ đi vấn đề lịch sử này được.


Tôi đã nhiều lần trao đổi với các học giả nước ngoài và họ đã thắc mắc khá nhiều chuyện tại sao sự kiện chiến tranh chống quân TQ xâm lược năm 1979 lại không được nhắc đến trong các giáo trình lịch sử của VN. Tôi đã phải chống chế với lý do rằng người VN muốn quên đi quá khứ và hướng đến tương lai. Nhiều học giả Hàn Quốc, Nhật Bản đã phản bác tôi vì “Lịch sử là lịch sử. Quá khứ là quá khứ. Tương lai là tương lai”. Họ nói rằng: “Chúng tôi biết người VN rất nhân hậu, muốn hòa hiếu với các dân tộc khác. Nhưng điều này không thể thay thế cho trang sử chống ngoại xâm này được”.

Thứ hai, trong thế giới hiện đại toàn cầu hóa, các quốc gia đều phụ thuộc lẫn nhau. Không có quốc gia nào hoàn toàn độc lập tuyệt đối. Ngay cả Mỹ nhiều lúc cũng phải nhân nhượng các quốc gia khác. Chúng ta không có quan niệm về độc lập chủ quyền tuyệt đối trong thời đại toàn cầu hóa. Nhưng trong bối cảnh này, phải nhận thức rõ cái gì là trường tồn? Theo tôi có 3 thứ là chủ quyền quốc gia, ý thức dân tộc và lợi ích quốc gia. Ở đây chúng ta phân biệt chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, chủ nghĩa dân tộc nước lớn với lòng yêu nước chân chính, ý thức tự tôn tự hào dân tộc. Hai cái đó khác nhau. Người VN có truyền thống yêu nước, có tinh thần chống ngoại xâm bất khuất, đó là điều cần được phát huy trong 92 triệu người VN trong và ngoài nước.

Chủ quyền quốc gia, ý thức dân tộc và lợi ích quốc gia là những cái “dĩ bất biến”, những cái còn lại là “ứng vạn biến”. Những chuyện “16 chữ”, “bốn tốt” trong quan hệ với TQ là “ứng vạn biến”. Bài học từ cuộc chiến chống xâm lược năm 1979 cho thấy nếu không nhận thức được điều này thì rất nguy hiểm.

Thứ ba, trong bối cảnh quốc tế hiện nay, tiêu chí để phân biệt người yêu nước hiện nay là anh có bảo vệ lợi ích quốc gia hay không. Trên thế giới này không có bạn bè vĩnh viễn hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia mới là vĩnh viễn. Năm nay chúng ta chuẩn bị tổng kết Nghị quyết T.Ư 8 (7.2003) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Tôi thấy có một quan điểm bây giờ vẫn đúng, đó là: "Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh". Đồng thời, cũng phải có cách nhìn biện chứng về đối tượng và đối tác: trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta, cần phải đấu tranh.

Nhìn lại từ câu chuyện của 34 năm trước đến những căng thẳng hiện tại trong vấn đề biển Đông, theo ông có thể hy vọng gì ở tương lai trong quan hệ giữa VN và TQ ?

Tạo ra lòng tin, sự hữu nghị chân thật giữa hai nước là con đường tất yếu nhưng đòi hỏi thời gian lâu dài và từ cả hai phía. Đây không phải là điều có thể hy vọng có được trong vài ba năm tới đây. Lịch sử mách bảo chúng ta muốn giữ được hòa bình, ổn định, giữ được độc lập tự chủ thì điều quan trọng nhất là giữ được lòng dân. Trên dưới một lòng, có được sự đoàn kết dân tộc thì chắc chắn không có kẻ xâm lược nào dám dại dột động đến chúng ta cả. Lịch sử VN đã cho thấy những lần mất nước đều bắt đầu từ việc chính quyền mất dân. Năm 179 trước CN An Dương Vương để mất nước là do mất dân. Một ông vua đứng đầu quốc gia mà tin vào kẻ thù thì chuyện mất nước là không thể tránh khỏi. Năm 1406, nhà Hồ mất nước cũng vì đã mất dân. Đến mức độ nhà Minh truy bắt cha con Hồ Quý Ly thì chính những người trong nước đã chỉ điểm cho quân Minh. Năm 1788 Lê Chiêu Thống sang cầu viện Mãn Thanh đưa 20 vạn quân sang giày xéo quê cha đất tổ cũng là ông vua đã mất dân. Đó là bài học muôn đời để bảo vệ chủ quyền quốc gia.




Dùng không quân chuyển quân từ chiến trường K ra tiếp viện cho biên giới phía Bắc (2-1979)
"Vào ngày này 32 năm trước, quân đội Trung Quốc đã vượt qua biên giới Việt Nam. Bắc Kinh muốn "trừng phạt Hà Nội” vì Việt Nam đã tham gia vào việc lật đổ chế độ diệt chủng Pol Pot ở Campuchia. Lực lượng Trung Quốc xâm lược bao gồm 7 quân đoàn, lên đến 600.000 người. Phía Việt Nam, đối phó với lực lượng này, lúc đó chỉ có một sư đoàn quân chủ lực, một sư đoàn quân địa phương, lính biên phòng và dân quân tự vệ, với số lượng vũ khí không nhiều, gồm có pháo, súng cối và vũ khí chống tăng.

Ngày 18 tháng Hai, chính phủ Xô viết đã đưa ra một tuyên bố, trong đó, ngoài những điều khác, có nêu rõ: "Liên bang Xô viết sẽ thực hiện các cam kết theo Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Liên Xô và Việt Nam". Hiệp ước này được ký kết tại Matxcova ba tháng trước đó.

Để biểu thị sự hỗ trợ cho Việt Nam và hướng sự chú ý của quân đội Trung Quốc theo phía nam, 29 sư đoàn bộ binh của quân đội Liên Xô gồm 250 nghìn người, với sự hỗ trợ không quân đã được điều đến khu vực gần Mãn Châu ở biên giới Xô-Trung.

Đồng thời, lãnh đạo Liên Xô đã gửi bổ sung thêm cho Việt Nam một nhóm cố vấn quân sự.

Một trong những nhà lãnh đạo của Hiệp hội các cựu chiến binh Nga trong chiến tranh Việt Nam, đại tá Gennady Ivanov nhớ lại:

“Sáng 19 tháng 2, vào ngày thứ ba của cuộc xâm lược, một nhóm các cố vấn quân sự của Liên Xô đã bay tới Hà Nội, gồm các vị tướng có kinh nghiệm nhất, đứng đầu là đại tướng Gennady Obaturov. Ngay sau khi đến nơi, họ lập tức gặp tổng tư lệnh tối cao của Quân đội nhân dân Việt Nam”.

Các cố vấn quân sự Liên Xô không chỉ nắm tình hình thực tế qua cuộc tiếp xúc với bộ trưởng quốc phòng Văn Tiến Dũng và tổng tham mưu trưởng quân đội nhân dân Việt Nam Lê Trọng Tấn, mà còn ra mặt trận, lên tuyến đầu nơi quân đội Việt Nam bảo vệ Tổ Quốc. Tại đó, họ đã rơi (vào - FDDinh bổ xung) trận pháo kích mạnh của quân Trung Quốc, nhưng may mắn thay, không ai bị thương. Tuy nhiên, đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô vẫn không tránh được tổn thất.

Tại cuộc họp kéo dài 3 giờ đồng hồ ngày 25 tháng Hai với ông Lê Duẩn, đại tướng Obaturov đề xuất di chuyển lực lượng quân chủ lực được huấn luyện tốt hơn từ Campuchia về mặt trận phía Bắc. Đề xuất này, cũng như một loạt đề xuất khác do đại tướng Liên Xô đưa ra, đã được phía Việt Nam thông qua.

Theo lệnh của tướng Obaturov, các phi công lái máy bay vận tải quân sự Xô Viết đã chuyển cánh quân Việt Nam từ Campuchia về hướng mặt trận Lạng Sơn, khiến cho tình hình lập tức thay đổi nghiêng theo hướng thuận lợi cho Việt Nam. Đầu tháng Ba năm đó, sáu cố vấn Liên Xô đã hy sinh tại Đà Nẵng trong tai nạn máy bay, khi đang giúp Việt Nam.

Tướng Obaturov cũng đã gửi các lãnh đạo Liên Xô công văn yêu cầu khẩn cấp viện trợ cho Việt Nam vũ khí và trang thiết bị bằng đường hàng không.

“Các tổ chức quân sự Matxcova nhanh chóng và tích cực đáp ứng mọi yêu cầu của nhóm cố vấn Liên Xô tại Việt Nam - Đại tá Gennady Ivanov nói tiếp. - Trong thời gian ngắn nhất, quân đội nhân dân Việt Nam đã nhận được tất cả mọi thứ cần thiết để chống lại kẻ thù. Việt Nam đã được viện trợ tên lửa "Grad", trang bị kĩ thuật cho các đơn vị thông tin liên lạc, tình báo và các phương tiện hỗ trợ chiến đấu khác, bằng máy bay vận tải quân sự.”

Các biện pháp đó đã góp phần làm cho các cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc bị sa lầy. Một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam đã chiến đấu không cho đối phương tiến lên quá 30 km kể từ biên giới.

Những kẻ xâm lược đã mất hơn 62.000 sĩ quan và binh lính, 280 xe tăng và xe bọc thép, 118 khẩu pháo và súng cối cùng một số máy bay. Ngày 05 tháng Ba năm 1979, Trung Quốc bắt đầu rút quân khỏi các vùng lãnh thổ chiếm đóng. Ngày 18.3, chiến sự đã hoàn toàn chấm dứt

Hải quân Liên Xô đã không bàng quan đứng bên ngoài những sự kiện dữ dội ấy. Đó là nội dung buổi phát thanh ngày mai của chúng tôi. Mời các bạn đón nghe Đài Tiếng nói nước Nga, phát thanh từ Matxcova.
Vào những ngày này 32 năm trước, quân đội Trung Quốc đã tấn công vào miền Bắc Việt Nam. Bắc Kinh muốn "trừng phạt Hà Nội” vì Việt Nam đã tham gia vào việc lật đổ chế độ diệt chủng Pol Pot ở Campuchia.

Trong chương trình lần trước, chúng tôi đã nói về vai trò của các cố vấn quân sự Liên Xô đã giúp cho quân đội nhân dân Việt Nam đối phó với lực lượng Trung Quốc gồm 600.000 người, về các đợt cung cấp vũ khí và kỹ thuật quân sự của Liên Xô. Hồi đó, không chỉ các tỉnh miền Bắc mà cả bờ biển phía Bắc của Việt Nam cũng bị đe dọa bởi Hạm đội Nam Hải của Trung Quốc gồm gần 300 tàu chiến.

Sau đây là ý kiến của nhà Việt Nam học, sử gia Maxim Sunnerberg: “Khi quân đội Trung Quốc vượt qua biên giới Việt Nam, một tàu tuần dương và một tàu khu trục của Hạm Đội Thái Bình Dương đang hiện diện tại các điểm quan trọng của biển Đông để phô trương sự hỗ trợ của Liên Xô cho Việt Nam. Sau mấy ngày chiến sự giữa Việt Nam và Trung Quốc có thêm mấy tàu chiến của Liên Xô tiến tới khu vực. Sau ngày 20 tháng Hai, 13 tàu chiến, kể cả mấy tàu ngầm, đã chờ đợi đoàn tàu mới do tàu tuần dương “Đô đốc Senyavin” và tàu dương hạm tên lửa “Vladivostok” dẫn đầu tới khu vực. Đầu tháng 3, đoàn tàu xô-viết bao gồm 30 tàu chiến”.

Sau đây là đoạn trích từ nhật ký của thuyền trưởng tàu ngàm “B-88” Fedor Gnatusin:

“Đầu năm 1979, tàu chúng tôi đang bảo quản tại xưởng đóng tàu. Rồi vào tháng 2, có lệnh khẩn cấp ra biển. Các quả ngư lôi, lương thực và thiết bị kỹ thuật đã được rất nhanh xếp lên tàu. Đã có mấy tàu chiến khác cũng lên đường đi Việt Nam từ Vladivostok và Nakhodka”.


Còn đây là đoạn trích từ nhật ký của trung tá hải quân Vladimir Glukhov:

“Với tư cách chỉ huy bộ tham mưu của sư đoàn, tôi đã có nhiệm vụ đảm bảo đoàn tàu chiến Liên Xô chuyển đến Việt Nam, cụ thể đảm bảo các tàu chiến ghé vào các cảng Việt Nam. Cần phải kiểm tra độ sâu, hành trình di chuyển, hải lưu, kiểm tra bến tàu. Chúng tôi đã mất một ngày đêm để thực hiện công việc này, và sau 5 ngày nữa đã ghé vào cảng Đà Nẵng. Rồi chúng tôi hướng tới bán đảo Cam Ranh, nơi đang thành lập căn cứ hải quân Liên Xô. Mọi người đã làm việc khẩn trương để tiếp đón các tàu chiến của Hạm đội Thái Bình Dương”.

Các thủy thủ xô-viết đảm bảo hành trình an toàn cho các tàu vận tải từ Vladivostok, Nakhodka và Odessa chở hàng tiếp tế cho Việt Nam. Trong thời gian chiến sự, 6 tàu thủy Liên Xô đã tới cảng Hải Phòng vận chuyển kỹ thuật quân sự, kể cả tên lửa và thiết bị radar giành cho Việt Nam.

Đoàn tàu Liên Xô đã hiện diện ở vùng biển Đông đến tháng 4 năm 1979. Kết quả là, hạm đội Hải Nam của Trung Quốc không tham gia hoạt động quân sự chống Việt Nam.

Nhà Việt Nam học, sử gia Maxim Sunnerberg nói tiếp: “Trong khi đó, thủy thủ Liên Xô đã phải đối phó đoàn tàu Mỹ do tàu chở máy bay “Constellation” dẫn đầu đã hiện diện ở khu vực Đông Nam Á từ ngày 6 tháng 12 năm 1978. Ngày 25 tháng 2 năm 1979, các tàu chiến Mỹ đã chuyển đến bờ biển Việt Nam như người Mỹ giải thích “để kiểm soát tình hình”. Các tàu ngầm của Liên Xô đã chắn hành trình tiến tới vùng chiến sự không cho tàu chiến Hoa Kỳ đến gần bờ biển Việt Nam. Một số tàu ngầm vẫn ở lại dưới nước, số khác hiện lên trên mặt nước. Hóa ra, hệ thần kinh của các thủy thủ Liên Xô là vững vàng hơn – tàu chiến Mỹ không dám vượt qua tuyến ngăn chặn do các tàu ngầm Liên Xô xây dựng. Ngày 6 tháng 3, các tàu chiến Hoa Kỳ đã rời khỏi vùng biển Đông”.

36 thủy thủ của Hạm đội Thái Bình Dương đã được tặng huân huy chương của Chính phủ Liên Xô vì lòng dũng cảm và chủ nghĩa anh hùng trong thời gian Việt Nam đối phó với cuộc xâm lược của Trung Quốc."

Thứ Hai, 31 tháng 12, 2012

Giống chó Akita Inu siêu trung thành

Đây là giống chó được gọi là "quốc khuyển của Nhật Bản cơ đấy". Vậy những chú chó Akita có những đặc điểm gì mà người Nhật lại tự hào về nó thế nhỉ?



Nguồn gốc

Có nguồn gốc từ đảo Honshu vùng Akita, Nhật bản, nơi mọi thứ còn được giữ lại gần như nguyên vẹn qua hàng thế kỷ. Ngày nay Akita được coi là giống chó chính thức - "quốc khuyển" của Nhật. Giống chó được sử dụng vào nhiều mục đích, đầu tiên như là bảo vệ cho Nhật hoàng, sau đó như chó chiến đấu, chó săn gấu và lợn lòi, dùng trong quân đội, cảnh sát.

Chúng có mõm mềm nên có thể dễ dàng săn những loài chim nước. Ở Nhật, tượng chó Akita thường được gửi tới cho những người bệnh để chúc cho họ chóng bình phục, hoặc bố mẹ trẻ mới sinh con để tượng trưng cho sức khỏe. Con Akita đầu tiên được mang tới Mỹ bởi Helen Keller. Người Mỹ cũng mang Akita trở về sau Đại chiến thế giới lần thứ 2.

Đặc điểm

Đây là loài chó lớn nhất của Nhật bản trong nhóm Spitz. Chúng có thân hình chắc nịch, cân đối, gân guốc, mạnh mẽ và trông rất ấn tượng.

Đầu to, trán phẳng và bộ hàm ngắn nhưng cực khoẻ. Mặt có hình tam giác theo kiểu chó sói. Giữa trán có một rãnh chia đôi mặt thành hai nửa bằng nhau. Mắt nhỏ, hình tam giác có màu nâu sẫm. Mũi thông thường có màu đen (có thể có màu nâu trên các cá thể có màu lông trắng, nhưng màu đen được đánh giá cao hơn). Môi đen và lưỡi có màu hồng.

Akita có bản năng của loài săn bắt và có thể phát huy ngay bản năng này kể cả lúc có tuyết phủ dày.


Răng sắc khoẻ, theo hình răng cưa. Đuôi luôn vểnh cao và cuộn tròn ở trên lưng. Chân của chúng có màng, giống kiểu chân mèo, vì thế nên bơi rất giỏi. Bộ lông có 2 lớp bao gồm lớp lông cứng, không thấm nước ở phía ngoài và lớp lông dày mềm bên trong. Có các màu trắng tuyền, đỏ, màu hạt vừng và vằn vện. Màu đen không được chấp nhận.

Tính cách

Là giống chó ngoan ngoãn, dễ bảo, nhưng đôi khi cũng tỏ ra cứng đầu. Rất tận tuỵ và yêu quí gia chủ. Thông minh, can đảm và rất thận trọng. Tuy nhiên Akita có nhược điểm là khá bướng bỉnh nên cần có sự dạy dỗ chu đáo từ khi còn nhỏ.


Akita còn là một trong những giống chó bảo vệ tốt nhất. Các bà mẹ người Nhật thường giao cho chúng nhiệm vụ trông coi những đứa con của mình. Akita là giống chó cực kỳ trung thành và rất quyến luyến với chủ. Tuy vậy chúng rất hung dữ đối với các con chó và vật nuôi khác, vì vậy phải luôn cảnh giác để tránh đụng độ. Tốt nhất là khi ra ngoài cần cho chúng đeo rọ mõm.


Mặc dù chúng rất yêu quí bọn trẻ của gia chủ, nhưng chúng vẫn có thể tỏ ra hung dữ đối với trẻ lạ. Khi bị trêu trọc, chúng có thể cắn. Giống chó này có tính sở hữu rất cao. Cần có sự dạy dỗ hết sức kiên trì vìAkita khá là dễ nản đấy . Chúng rất thích sự chăm sóc của gia chủ, nên nếu đã nuôi Akita thì phải dành thời gian mà chăm sóc, "trò chuyện" với em ý nhé . Giọng của chúng có nhiều âm thanh rất hay, tuy vậy Akita không phải là loại chó thích sủa.


Một đại diên tiêu biểu Chú chó Hachiko.


DBS M05479
Quang Cao